Home Rules Contact  
Chợ thông tin Giáo dục Việt Nam
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc

Chợ thông tin Giáo dục Việt Nam Kiến thức xã hội Kiến thức văn học Văn học phổ thông, Thơ Bạch Cư Dị

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
ptchien ptchien đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 204
Mặc định Thơ Bạch Cư Dị

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Đêm đông nghe tiếng dế

Dế đông sầu gấp mấy thu dồn
Người dửng dưng nghe cũng chạnh buồn.
Già cả như ta nghe chả sợ
Tuổi xanh e sẽ bạc đầu luôn.


Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
  #2  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
watermandanang watermandanang đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 157
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Tỳ bà hành

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty

Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi

Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ?
Dừng dây tơ nấn nà làm thinh
Đời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui

Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay

Nghe não ruột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Giải bày hết nỗi trước sau muôn vàn

Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh

Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời

Rằng "xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên

Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn

Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu oi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu

Buồn em trảy lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dung
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương

Khách trọng lợi, khinh đường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng giãi, nước trôi lạnh lùng

Đêm khua, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen
Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời

Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa Kinh khuyết bấy lâu
Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai

Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên

Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng

Há chẳng có ca rừng, địch nội ?
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai

Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca "
Đứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây

Nghe não ruột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh

Bản Dịch: Phan Huy Vịnh
Trả lời với trích dẫn


  #3  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
umivungtau umivungtau đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 165
Mặc định

Tiểu sử cặn kẽ hơn về Bạch Cư Dị

Bạch Cư Dị (772-846): Tên chữ là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, người Hạ Thành (nay là Thiểm Tây). Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.

Năm Trinh Nguyên, ông thi đậu tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào Tham Quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu về kinh lo răn dạy Thái Tử.

Năm Nguyên Hòa thứ 10 (Đường Hiến Tông ), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, đám quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư Mã Giang Châu. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.

Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.

Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ).

Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).

Bạch Lạc Thiên chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự.

Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn.

Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy -người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.

Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái.

Ông để lại hàng ngàn bài thơ.
Trả lời với trích dẫn


  #4  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
ld-py ld-py đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 175
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Trường Hận Ca

Hán hoàng vị sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức
Thiên sinh lệ chất nan tự khí
Nhất chiêu tuyển tại quân vương trắc
Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh
Lục cung phấn đại vô nhan sắc
Xuân hàn tứ dục Thanh Hoa trì
Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi
Thị nhi phù khởi kiều vô lực
Thủy thị tân thừa ân trạch thì
Vân mấn hoa nhan kim bộ dao
Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi
Tòng thử quân vương bất tảo triều
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ
Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân
Tam thiên sủng ái tại nhất nhân
Kim ốc trang thành kiều thị dạ
Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân
Tỷ muội huynh đệ giai liệt thổ
Khả liên quang thái sinh môn hộ
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ
Ly cung cao xứ nhập thanh vân
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn
Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc
Tận nhật quân vương khan bất túc
Ngư Dương bề cổ động địa lai
Kinh phá Nghê thường vũ y khúc
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành
Thúy hoa dao dao hành phục chỉ
Tây xuất đô môn bách dư lý
Lục quân bất phát vô nại hà
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử
Hoa điền ủy địa vô nhân thu
Thúy kiều, kim tước, ngọc tao đầu
Quân vương yểm diện cứu bất đắc
Hồi khan huyết lệ tương hòa lưu
Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các
Nga My sơn hạ thiểu nhân hành
Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc
Thục giang thủy bích Thục sơn thanh
Thánh chủ trieu triêu mộ mộ tình
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh
Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự
Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ
Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ
Quân thần tương cố tận triêm y
Đông vọng đô môn tín mã quy
Quy lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung Vỵ Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thùy
Xuân phong đào lý hoa khai nhật
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì
Tây cung nam nội đa thu thảo
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo
Lê viên đệ tử bạch phát tân
Tiêu phòng a giám thanh nga lão
Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên
Cô đăng khiêu tận vị thành miên
Trì trì chung cổ sơ trường dạ
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên
Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng
Phỉ thủy khâm hàn thùy dữ cộng
Du du sinh tử biệt kinh niên
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng
Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách
Vị cảm quân vương triển chuyển tư
Toại giao phương sĩ ân cần mịch
Bài không ngự khí bôn như điện
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến
Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến
Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn
Sơn tại hư vô phiếu diểu gian
Lâu các linh lung ngũ vân khởi
Kỳ trung xước ước đa tiên tử
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị
Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh
Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi
Châu bạc ngân bình di lý khai
Vân kết bán thiên tân thụy giác
Hoa quan bất chỉnh há đường lai
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử
Do tự Nghê Thường vũ y vũ
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can
Lê hoa nhất chi xuân đới vũ
Hàm tình ngưng thế tạ quân vương
Nhất biệt tâm dung lưỡng diểu mang!
Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt
Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ
Bất kiến Trường An kiến trần vụ
Duy tương cựu vật biểu thâm tình
Điến hạp kim hoa ký tương khứ
Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến
Thoa tích hoàng kim hạp phân điến
Đãn giao tâm tự kim điến kiên
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến
Lâm biệt ân cần trung ký từ
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:
Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì
"Tại thiên nguyệt tác tỵ dực điểu
Tại địa nguyện vi liên lý chi"
Thiên trường địa cửu hữu thì tận
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ

Dịch Nghĩa

Vua Hán (1) trọng sắc đẹp, muốn có một người nghiêng nước nghiêng thành
Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được
Họ Dương có cô gái mới lớn lên
Nuôi dạy ở nơi buồng the, người ngoài chưa ai biết
Vẻ đẹp trời sinh khó tự bỏ hoài,
Một sớm được tuyển vào bên vua
Mỗi lần ngoành mặt, nhoẻn cười lộ ra trăm vẻ đáng yêu
Sáu cung (2) son phấn không còn ai đáng gọi là có nhan sắc nữa
Tiết xuân lạnh, được tắm ở hồ Hoa Thanh (3)
Suối ấm, nước trơn dội trên da trắng mịn như mỡ đông
Thị tỳ nâng dậy, yếu mềm như không còn sức nữa
Ấy là lần đầu tiên được thấm nhuần ơn vua
Tóc mây, mặt hoa, những chuỗi ngọc trên đầu rung rinh
Trướng phù dung ấm trải qua đêm xuân
Bực nỗi đêm xuân ngắn ngủi, mặt trời lên cao rồi mới dậy
Từ đấy vua không ra coi chầu sớm nữa
Khi mua vui, khi hầu tiệc, chẳng lúc nào ngơi
Mùa xuân theo đi chơi xuân, đêm nào cũng là đêm riêng của nàng với vua
Gái đẹp nơi hậu cung hàng ba ngìn người,
Tình yêu thương đối với ba ngìn người ấy nay trút cả vào mình nàng
Nơi nhà vàng, trang hoàng xong, là chỗ của những đêm hầu hạ nũng nịu
Tiệc lầu ngọc, tan rồi là buổi say sưa với cả chiều xuân êm ái!
Chị em, anh em đều đước cắt đất phong quan
Thương thay! Một mình làm vẻ vang cho cả nhà cả họ!!
Khiến cho lòng những người làm cha mẹ trong thiên hạ
Quý sinh con gái hơn sinh trai
Cung điện trên núi Ly Sơn (4)cao vút mây xanh
Khúc nhạc tiên theo gió đưa đi, nơi nơi nghe tiếng
Giọng ca trầm trầm, điệu múa khoan hòa với tiếng đàn tiếng sáo
Suốt ngày vua xem không xuể
Tiếng trống trận Ngư Dương (5) bỗng dậy đất kéo đến
Làm cho điệu múa " Nghê thường vũ y " (6) tan tác kinh hoàng
Chín lần thành khuyết, khói bụi mịt mù
Ngìn cỗ xe, muôn cỗ ngựa chạy về tây nam
Tàn thắm, cờ hoa ngả nghiêng dùng dằng
Đi ra phía tây, khỏi cổng thành được hơn trăm dặm
Bỗng sáu quân không chịu tiến, tình thế khó xong
Gái mày ngày phải quằn quại chết trước đầu ngựa
Bông hoa vàng, cành thúy kiều, hình kim tước và trâm ngọc cài đầu
Rơi rắc trên mặt đất chẳng còn ai nhặt
Cứu không nổi, vua đành bưng mặt
Khi nhìn lại , máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng
Bụi vàng tản mát bay, gió hiu hắt thổi
Những đợt thang mây vẫn uốn khúc cheo leo tren núi Kiếm Các
Dưới chân núi Nga My ( ở tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thưa thớt người đi
Bóng cờ ủ rũ, ánh mặt trời bạc phếch
Sông đất Thục ( nay là tỉnh Tứ Xuyên) biếc, núi đất Thục xanh
Tình vua nhớ nhung hết sớm lại chiều
Ánh trăng nơi hành cung, trông những đau lòng
Tiếng kiểng lúc đêm mưa, nghe càng đứt ruột
Trời xoay đất chuyển, xe rồng ( xe của vua) lại trở về
Tới đó ( chỉ bãi Mã Ngôi, nơi Dương Quí Phi chết ) dùng dằng không nỡ dời chân
Trong đống đất bùn, trên bãi Mã Ngôi
Mặt ngọc nào thấy đâu, còn trơ chỗ thác uổng!
Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo
Hướng về phương đông, phía cổng thành mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về
Tới nơi, ao vườn vẫn nguyên như cũ
Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ương,
Thấy hoa sen, nhớ đến mặt nàng, thấy lá liễu, nhớ lông mày nàng
Trước cảnh ấy, cầm sao được giọt lệ !
Những buổi gió xuân, đào lý nở hoa
Những lúc mưa thu, ngô đồng rụng lá
Đền Tây cung (7) điện Nam Nội (8) cỏ thu mọc đầy
Lá rụng tơi bời, đỏ thềm không ai quét
Bọn con em nơi lê viên tóc đà nhuốm bạc
Lũ thái giám, thị tỳ chốn Tiêu Phòng cũng đã già rồi
Trước điện, buổi tối, cái đóm bay, cảnh tình lặng ngắt
Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn chưa thành
Tiếng trống cầm canh chầm chậm của đêm mới bắt đầu dài
Ánh sao lấp lánh trên sông Ngân lúc trời sắp sáng
Lớp sương nặng phủ trên mái ngói uyên ương (10) giá ngắt
Tấm chăn cánh trả, lạnh như tiền, chung đắp cùng ai ?
Kẻ khuất người còn xa nhau đã hơn năm trời đằng đẵng
Hồn phách chưa từng gặp nhau trong giấc chiêm bao
Một đạo sĩ ở Lâm Cùng (11) , đến chơi Hồng đô (12 )
Có phép thuật tinh thành gọi được hồn phách người chết
Vì cảm nỗi lòng vua nhớ nhung trằn trọc
Mới sai phương sĩ ( đạo sĩ) hết lòng tìm kiếm :
Xé tầng mây, cưỡi làn gió, đi nhanh như chớp
Lên trời, xuống đất, tìm khắp mọi nơi
Trên từ mây biếc, dưới đến suối vàng
Cả hai nơi đều mênh mang không thấy
Chợt nghe ở ngoài bể cổ có ngọn núi tiên
Núi rập rờn trong khoảng hư vô huyền ảo
Lầu gác lộng lẫy, năm thức mây lồng
Có bao nàng tiên thướt tha yểu điệu
Trong đó, một nàng tên gọi Thái Chân
Da tuyết, mặt hoa na ná giống
Gõ cửa ngọc mái tây nơi kim khuyết
Nhờ Tiểu Ngọc, truyền bảo đến Song Thành ( tên hai tiên nữ)
Nghe có sứ vua Hán tới
Trong màn cửa hoa giật mình tỉnh giấc
Khép áo, đẩy gối, bồi hồi trở dậy
Cánh rèm châu, bức mành bạc từ từ mở ra
Bối tóc mây hơi lệch, vẻ còn ngái ngủ
Mũ hoa đội chưa ngay, vội bước xuống thềm
Gió thổi, vạt áo nhẹ nhẹ bay
Hệt như lúc đang múa khúc " Nghê Thường Y Vũ "
Vẻ ngọc âm thầm, vắn dài hàng lệ,
Một cành hoa lệ đẫm hạt mưa xuân
Đăm đăm khoé mắt, nghẹn ngào " Đa tạ lòng quân vương"
"Một lần từ biệt đôi ngả cách mặt khuất lời
"Tình ân ái ở Chiêu Dương thế là đoạn tuyệt
"Ngày tháng trong cung Bồng Lai dài đằng đẵng
"Ngoảnh mặt nhìn xuống cõi đời
"Không ktháy Trường An, chỉ thấy bụi trần mù mịt
"Nay xin mượn vật cũ để tỏ chút tình thâm
"Chiếc hộp khảm, cành kim thoa, gửi mang về giúp
"Thoa để lại một nhành, hộp để lại một mảnh
Thoa bẻ nhánh vàng , hộp chia mảnh khảm
Chỉ nguyệt tấm lòng bền như vàng như khảm
"Kẻ trên đời, người trần thế sẽ còn gặp nhau!
Lúc sắp từ biệt còn ân cần nhắc gửi mấy lời
Trong đó có lời thề riêng, chỉ hai tấm lòng được biết
Đó là đêm mồng bảy tháng bày, tại điện Trường Sinh ( một điện trong cung Hoa Thanh đời Đường)
Nửa đêm , người vắng, thề riêng với nhau:
"Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh,
"Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành "
Trời đất dài lâu cũng có lúc hết
Hận này đằng dặc, không thủa nào cùng !

Chú thích :
(1) Vua Hán : chỉ Đường Minh Hoàng
(2) Sáu cung: chỉ những nơi vợ vua ở
(3) Hồ Hoa Thanh: Một hồ trên núi Ly Sơn, có suối nước ấm . Đường Minh Hoàng sai xây cung điện ở đấy làm nơi nghỉ, chơi
(4)Núi Ly Sơn : tức núi Ly Nhung, ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay
(5)Ngư Dương : nơi An Lộc Sơn trấn thủ, thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay
(6) Nghê Thường y vũ : Một điệu múa gốc từ Ấn Độ, truyền sang Trung Quốc, Đường Minh
Hoàng sửa đổi lại thành một điệu ca vũ trong hoàng cung
(7) Đền Tây Cung , (8) điện Nam nội : tên hai cung, Đường Minh Hoàng sau khi chạy loạn trở về truyền ngôi cho con, làm thái thượng hoàng và lần lượt ở hai cung này
(9) Tiêu Phòng : tên một điện trong cung Vỵ Ương đời Hán, nơi vợ vua ở
(10) Ngói uyên ương : Thụy Văn Đế nằm mơ thấy hai phiến ngói rơi xuống đất, hóa
đôi uyên ương, về sau người ta gọi thứ ngói cứ ghép thành hai phiến một để lợp nhà là ngói uyên ương .
(11) Lâm Cùng :nay là huyện Cùng Lai, tỉnh Tứ Xuyên
(12) Hồng Đô :Nguyên là cửa một cung điện đời Hán ; nay dùng để chỉ nơi kinh đô

Dịch Thơ
Trường Hận Ca


Đức vua Hán mến người khuynh quốc
Trải bao năm tìm chuốc công tai
Nhà Dương có gái mới choai
Buồn xuân khóa kín chưa ai bạn cùng
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên
Một cười trăm vẻ thiên nhiên
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa
Vua yêu bận ấy mới là
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái
Màn phù dung êm ái đêm xuân
Đêm xuân vắn vủn có ngần
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm
Ba ngìn xinh đẹp chị em
Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình
Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp
Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân
Anh em sướng đủ mọi phần
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung
Suốt ngày múa hát thung dung
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến
Khúc Nghê Thường tan biến như không
Chín lần thành khuyết bị tung
Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam
Đi lại đứng hơn trăm dậm đất
Cờ thúy hoa bóng phất lung lay
Sáu quân rúng rắng làm rầy
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất
Ôi! Thúy Kiều ngọc nát vàng phai
Quân vương bưng mặt cho rồi
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn
Gió tung bụi mê man tản mác
Đường thang mây Kiếm Các lần đi
Vắng tanh, dưới núi Nga My
Mặt trời nhạt thếch , tinh kỳ buồn tênh
Đát Ba Thục non xanh nước biếc
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai
Thấy trăng luống những đau người
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông
Phút trời đất quay cuồng vận số
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa
Đất bùn chỗ chết còn trơ
Thấy đâu mặt ngọc ! Bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ
Gióng dây cương, ngựa tế về đông
Cảnh xua dương liễu, phù dung
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười
Phù dung đó, mặt ai đâu tá ?
Mày liễu đâu ? Cho lá còn như
Càng trông hoa liễu năm xưa
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi ?
Vườn lê cũ những ai con hát ?
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng
Những ai coi giữ tiêu phòng ?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đền khêu đã cạn dầu
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong !
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời ?
Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh
Trong chăn nằm bên cạnh nào ai ?
Cách năm sống thác đôi nơi
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng ?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã
Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông
Xót vì vua chúa nhớ nhung
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay
Cưỡi luồng gió như bay như biến
Tren trời xanh, dưới đến đất đen
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền
Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi !
Sực nghe nói tìm đi mé bể,
Có non tiên ngoài phía hư không
Rỡ ràng cugn điện linh lung
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử
Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân
Mặt hoa da tuyết trắng ngần
Dáng như người ấy có phần phải chăng ?
Mái tây gõ cửa vàng then ngọc
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành
Nghe tin sứ giả Hán Đình
Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực,
Mở rèm châu, bình bạc lần ra
Bâng khoâng nửa mái mây tà
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu
Phớt tay áo bay màu ngọn gió
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa
Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương
Từ ngày cách trở đôi phương
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong
Nơi đế điện dứt vòng ân ái
Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày
Cõi trần ngoảnh lại mà hay
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú ?
Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi
Thoa vàng hộp khảm phân đôi
Nửa xin để lại nửa thời đem đi
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc
Tựa hoa vàng bền chắc không phai
Thời cho cách trở đôi nơi
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt
Lời thề xưa lòng biết với lòng
Là đêm trùng thất ngồi chung
Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người
Xin kết nguyện chim trời liền cánh
Xin làm cây cành nhánh liền nhau
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi ...

Bản Dịch:Tản Đà
Trả lời với trích dẫn


  #5  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
cuahangso1 cuahangso1 đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 143
Mặc định

Thay ông hàng xóm nói tâm sự

Người đời sao nghĩ vẩn vơ ?
Tấm lòng khi trước bây giờ khác nhau .
Trước buồn chẳng được sống lâu ,
Nay làm ông lão bạc đầu lại chê !


Bản dịch của Hoàng Tạo dịch
Trả lời với trích dẫn


  #6  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
spn spn đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 172
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Đại mãi tân nữ tặng chư kỹ


Loạn bồng vi mấn,bố vi cân
Hiểu đạp Hàn sơn tự phụ tân
Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ
Trước hồng kỵ mã thị hà nhân ?

Dịch Nghĩa:

Tóc như cỏ bồng rối bù,khăn bằng vải thô
Sáng sớm dẫm chân trên núi Hàn gánh củi
Một loại gái ở bên bờ sông Tiền Đường
Mặc áo đỏ cỡi ngựa,ấy là loại người gì ?

Dịch Thơ:

Thay lời gái bán củi tặng kỹ nữ

Đầu bù như rạ quấn khăn thô
Sớm dẫm non Hàn gánh củi khô
Gái bến Tiền Đường ai đó nhỉ?
Quần hồng cỡi ngựa biết bao cô!

Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Trả lời với trích dẫn


  #7  
Cũ 31-07-2012, 11:39 AM
dongthanhqn dongthanhqn đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 179
Mặc định

Ông Già Đỗ Lăng (1)

Ông già Đỗ Lăng, quê Đỗ Lăng,
Mấy thửa ruộng xấu cấy quanh năm.
Tháng bak hông mưa, lại gió nóng,
Mạ không lên được đều chết bỏng.
Tháng chín lạnh sớm, sương xuống nhiều,
Gié lúa chưa chín đều héo queo.
Quan trên biết rõ mà không xét,
Thúc lấy đủ tô cầu lập công.
Bán đất, cầm dâu nộp cho đủ.
Cơm áo sang năm trông vào đâu?
Lột áo trên mình ta,
Cướp cơm trong miệng ta.
Hại người hại vật là hùm sói,
Cứ gì cào móng, nghiến răng ăn thịt người!
Không biết người nào tâu hoàng đế,
Vua thương bíêt được người tác tệ.
Chiếu thư nói rõ sự ban ơn;
Kinh kì năm nay tha hết thuế.
Lí dịch mới đến ngày hôm qua,
Tay cầm sắc điện dán thôn nhà.
Mười nhà chịu thuế, chín đã đóng,
Ơn vua tha thuế cũng bằng thừa!

Bản dịch của Doãn Kế Thiện

Chú thích:


(1) Đỗ Phủ.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 08:27 AM

Xây dựng bởi SangNhuong.com
© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.

Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay | Chợ rao vặt miễn phí SangNhuong.com | Chợ thông tin bất động sản lớn nhất Việt Nam