|
|||
|
|||
#1
|
|||
|
|||
Thơ Bạch Cư Dị
Đêm đông nghe tiếng dế Dế đông sầu gấp mấy thu dồn Người dửng dưng nghe cũng chạnh buồn. Già cả như ta nghe chả sợ Tuổi xanh e sẽ bạc đầu luôn. Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu |
#2
|
|||
|
|||
Tỳ bà hành Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu Người xuống ngựa, khách dừng chèo Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty Say những luống ngại khi chia rẽ Nước mênh mông đượm vẻ gương trong Đàn ai nghe vẳng bên sông Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá ? Dừng dây tơ nấn nà làm thinh Đời thuyền ghé lại thăm tình Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ Tay ôm đàn che nửa mặt hoa Vặn đàn mấy tiếng dạo qua Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay Nghe não ruột mấy dây buồn bực Dường than niềm tấm tức bấy lâu Mày chau tay gẩy khúc sầu Giải bày hết nỗi trước sau muôn vàn Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu Dây to nhường đổ mưa rào Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu Trong hoa oanh ríu rít nhau Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao Cung đàn trọn khúc thanh tao Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông Ngậm ngùi đàn bát xếp xong Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời Rằng "xưa vốn là người kẻ chợ Cồn Hà Mô trú ở lân la Học đàn từ thuở mười ba Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc Ả Thu nương ghen lúc điểm tô Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ Bức quần hồng hoen ố rượu oi Năm năm lần lữa vui cười Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu Buồn em trảy lại lo dì thác Sầu hôm mai đổi khác hình dung Cửa ngoài xe ngựa vắng không Thân già mới kết duyên cùng khách thương Khách trọng lợi, khinh đường ly cách Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi Thuyền không, đậu bến mặc ai Quanh thuyền trăng giãi, nước trôi lạnh lùng Đêm khua, sực nhớ vòng tuổi trẻ Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen Nghe đàn ta đã chạnh buồn Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời Cùng một lứa bên trời lận đận Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau Từ xa Kinh khuyết bấy lâu Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai Chốn cùng tịch lấy ai vui thích Tai chẳng nghe đàn địch cả năm Sông Bồn gần chốn cát lầm Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên Tiếng chi đó nghe liền sớm tối Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng Há chẳng có ca rừng, địch nội ? Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe Tỳ bà nghe dạo canh khuya Dường như tiên nhạc gần kề bên tai Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca " Đứng lâu dường cảm lời ta Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây Nghe não ruột khác tay đàn trước Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi Lệ ai chan chứa hơn người ? Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh Bản Dịch: Phan Huy Vịnh |
#3
|
|||
|
|||
Tiểu sử cặn kẽ hơn về Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị (772-846): Tên chữ là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, người Hạ Thành (nay là Thiểm Tây). Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động. Năm Trinh Nguyên, ông thi đậu tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào Tham Quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu về kinh lo răn dạy Thái Tử. Năm Nguyên Hòa thứ 10 (Đường Hiến Tông ), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, đám quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư Mã Giang Châu. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn). Bạch Lạc Thiên chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn. Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy -người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang. Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái. Ông để lại hàng ngàn bài thơ. |
#4
|
|||
|
|||
Trường Hận Ca Hán hoàng vị sắc tư khuynh quốc Ngự vũ đa niên cầu bất đắc Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức Thiên sinh lệ chất nan tự khí Nhất chiêu tuyển tại quân vương trắc Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh Lục cung phấn đại vô nhan sắc Xuân hàn tứ dục Thanh Hoa trì Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi Thị nhi phù khởi kiều vô lực Thủy thị tân thừa ân trạch thì Vân mấn hoa nhan kim bộ dao Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi Tòng thử quân vương bất tảo triều Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ Hậu cung giai lệ tam thiên nhân Tam thiên sủng ái tại nhất nhân Kim ốc trang thành kiều thị dạ Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân Tỷ muội huynh đệ giai liệt thổ Khả liên quang thái sinh môn hộ Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ Ly cung cao xứ nhập thanh vân Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc Tận nhật quân vương khan bất túc Ngư Dương bề cổ động địa lai Kinh phá Nghê thường vũ y khúc Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành Thúy hoa dao dao hành phục chỉ Tây xuất đô môn bách dư lý Lục quân bất phát vô nại hà Uyển chuyển nga mi mã tiền tử Hoa điền ủy địa vô nhân thu Thúy kiều, kim tước, ngọc tao đầu Quân vương yểm diện cứu bất đắc Hồi khan huyết lệ tương hòa lưu Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các Nga My sơn hạ thiểu nhân hành Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc Thục giang thủy bích Thục sơn thanh Thánh chủ trieu triêu mộ mộ tình Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung Bất kiến ngọc nhan không tử xứ Quân thần tương cố tận triêm y Đông vọng đô môn tín mã quy Quy lai trì uyển giai y cựu Thái Dịch phù dung Vỵ Ương liễu; Phù dung như diện liễu như mi Đối thử như hà bất lệ thùy Xuân phong đào lý hoa khai nhật Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì Tây cung nam nội đa thu thảo Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo Lê viên đệ tử bạch phát tân Tiêu phòng a giám thanh nga lão Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên Cô đăng khiêu tận vị thành miên Trì trì chung cổ sơ trường dạ Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng Phỉ thủy khâm hàn thùy dữ cộng Du du sinh tử biệt kinh niên Hồn phách bất tằng lai nhập mộng Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách Năng dĩ tinh thành trí hồn phách Vị cảm quân vương triển chuyển tư Toại giao phương sĩ ân cần mịch Bài không ngự khí bôn như điện Thăng thiên nhập địa cầu chi biến Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn Sơn tại hư vô phiếu diểu gian Lâu các linh lung ngũ vân khởi Kỳ trung xước ước đa tiên tử Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân Tuyết phu hoa mạo sâm si thị Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành Văn đạo Hán gia thiên tử sứ Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi Châu bạc ngân bình di lý khai Vân kết bán thiên tân thụy giác Hoa quan bất chỉnh há đường lai Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử Do tự Nghê Thường vũ y vũ Ngọc dung tịch mịch lệ lan can Lê hoa nhất chi xuân đới vũ Hàm tình ngưng thế tạ quân vương Nhất biệt tâm dung lưỡng diểu mang! Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ Bất kiến Trường An kiến trần vụ Duy tương cựu vật biểu thâm tình Điến hạp kim hoa ký tương khứ Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến Thoa tích hoàng kim hạp phân điến Đãn giao tâm tự kim điến kiên Thiên thượng nhân gian hội tương kiến Lâm biệt ân cần trung ký từ Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri: Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện Dạ bán vô nhân tư ngữ thì "Tại thiên nguyệt tác tỵ dực điểu Tại địa nguyện vi liên lý chi" Thiên trường địa cửu hữu thì tận Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ Dịch Nghĩa Vua Hán (1) trọng sắc đẹp, muốn có một người nghiêng nước nghiêng thành Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được Họ Dương có cô gái mới lớn lên Nuôi dạy ở nơi buồng the, người ngoài chưa ai biết Vẻ đẹp trời sinh khó tự bỏ hoài, Một sớm được tuyển vào bên vua Mỗi lần ngoành mặt, nhoẻn cười lộ ra trăm vẻ đáng yêu Sáu cung (2) son phấn không còn ai đáng gọi là có nhan sắc nữa Tiết xuân lạnh, được tắm ở hồ Hoa Thanh (3) Suối ấm, nước trơn dội trên da trắng mịn như mỡ đông Thị tỳ nâng dậy, yếu mềm như không còn sức nữa Ấy là lần đầu tiên được thấm nhuần ơn vua Tóc mây, mặt hoa, những chuỗi ngọc trên đầu rung rinh Trướng phù dung ấm trải qua đêm xuân Bực nỗi đêm xuân ngắn ngủi, mặt trời lên cao rồi mới dậy Từ đấy vua không ra coi chầu sớm nữa Khi mua vui, khi hầu tiệc, chẳng lúc nào ngơi Mùa xuân theo đi chơi xuân, đêm nào cũng là đêm riêng của nàng với vua Gái đẹp nơi hậu cung hàng ba ngìn người, Tình yêu thương đối với ba ngìn người ấy nay trút cả vào mình nàng Nơi nhà vàng, trang hoàng xong, là chỗ của những đêm hầu hạ nũng nịu Tiệc lầu ngọc, tan rồi là buổi say sưa với cả chiều xuân êm ái! Chị em, anh em đều đước cắt đất phong quan Thương thay! Một mình làm vẻ vang cho cả nhà cả họ!! Khiến cho lòng những người làm cha mẹ trong thiên hạ Quý sinh con gái hơn sinh trai Cung điện trên núi Ly Sơn (4)cao vút mây xanh Khúc nhạc tiên theo gió đưa đi, nơi nơi nghe tiếng Giọng ca trầm trầm, điệu múa khoan hòa với tiếng đàn tiếng sáo Suốt ngày vua xem không xuể Tiếng trống trận Ngư Dương (5) bỗng dậy đất kéo đến Làm cho điệu múa " Nghê thường vũ y " (6) tan tác kinh hoàng Chín lần thành khuyết, khói bụi mịt mù Ngìn cỗ xe, muôn cỗ ngựa chạy về tây nam Tàn thắm, cờ hoa ngả nghiêng dùng dằng Đi ra phía tây, khỏi cổng thành được hơn trăm dặm Bỗng sáu quân không chịu tiến, tình thế khó xong Gái mày ngày phải quằn quại chết trước đầu ngựa Bông hoa vàng, cành thúy kiều, hình kim tước và trâm ngọc cài đầu Rơi rắc trên mặt đất chẳng còn ai nhặt Cứu không nổi, vua đành bưng mặt Khi nhìn lại , máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng Bụi vàng tản mát bay, gió hiu hắt thổi Những đợt thang mây vẫn uốn khúc cheo leo tren núi Kiếm Các Dưới chân núi Nga My ( ở tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thưa thớt người đi Bóng cờ ủ rũ, ánh mặt trời bạc phếch Sông đất Thục ( nay là tỉnh Tứ Xuyên) biếc, núi đất Thục xanh Tình vua nhớ nhung hết sớm lại chiều Ánh trăng nơi hành cung, trông những đau lòng Tiếng kiểng lúc đêm mưa, nghe càng đứt ruột Trời xoay đất chuyển, xe rồng ( xe của vua) lại trở về Tới đó ( chỉ bãi Mã Ngôi, nơi Dương Quí Phi chết ) dùng dằng không nỡ dời chân Trong đống đất bùn, trên bãi Mã Ngôi Mặt ngọc nào thấy đâu, còn trơ chỗ thác uổng! Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo Hướng về phương đông, phía cổng thành mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về Tới nơi, ao vườn vẫn nguyên như cũ Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ương, Thấy hoa sen, nhớ đến mặt nàng, thấy lá liễu, nhớ lông mày nàng Trước cảnh ấy, cầm sao được giọt lệ ! Những buổi gió xuân, đào lý nở hoa Những lúc mưa thu, ngô đồng rụng lá Đền Tây cung (7) điện Nam Nội (8) cỏ thu mọc đầy Lá rụng tơi bời, đỏ thềm không ai quét Bọn con em nơi lê viên tóc đà nhuốm bạc Lũ thái giám, thị tỳ chốn Tiêu Phòng cũng đã già rồi Trước điện, buổi tối, cái đóm bay, cảnh tình lặng ngắt Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn chưa thành Tiếng trống cầm canh chầm chậm của đêm mới bắt đầu dài Ánh sao lấp lánh trên sông Ngân lúc trời sắp sáng Lớp sương nặng phủ trên mái ngói uyên ương (10) giá ngắt Tấm chăn cánh trả, lạnh như tiền, chung đắp cùng ai ? Kẻ khuất người còn xa nhau đã hơn năm trời đằng đẵng Hồn phách chưa từng gặp nhau trong giấc chiêm bao Một đạo sĩ ở Lâm Cùng (11) , đến chơi Hồng đô (12 ) Có phép thuật tinh thành gọi được hồn phách người chết Vì cảm nỗi lòng vua nhớ nhung trằn trọc Mới sai phương sĩ ( đạo sĩ) hết lòng tìm kiếm : Xé tầng mây, cưỡi làn gió, đi nhanh như chớp Lên trời, xuống đất, tìm khắp mọi nơi Trên từ mây biếc, dưới đến suối vàng Cả hai nơi đều mênh mang không thấy Chợt nghe ở ngoài bể cổ có ngọn núi tiên Núi rập rờn trong khoảng hư vô huyền ảo Lầu gác lộng lẫy, năm thức mây lồng Có bao nàng tiên thướt tha yểu điệu Trong đó, một nàng tên gọi Thái Chân Da tuyết, mặt hoa na ná giống Gõ cửa ngọc mái tây nơi kim khuyết Nhờ Tiểu Ngọc, truyền bảo đến Song Thành ( tên hai tiên nữ) Nghe có sứ vua Hán tới Trong màn cửa hoa giật mình tỉnh giấc Khép áo, đẩy gối, bồi hồi trở dậy Cánh rèm châu, bức mành bạc từ từ mở ra Bối tóc mây hơi lệch, vẻ còn ngái ngủ Mũ hoa đội chưa ngay, vội bước xuống thềm Gió thổi, vạt áo nhẹ nhẹ bay Hệt như lúc đang múa khúc " Nghê Thường Y Vũ " Vẻ ngọc âm thầm, vắn dài hàng lệ, Một cành hoa lệ đẫm hạt mưa xuân Đăm đăm khoé mắt, nghẹn ngào " Đa tạ lòng quân vương" "Một lần từ biệt đôi ngả cách mặt khuất lời "Tình ân ái ở Chiêu Dương thế là đoạn tuyệt "Ngày tháng trong cung Bồng Lai dài đằng đẵng "Ngoảnh mặt nhìn xuống cõi đời "Không ktháy Trường An, chỉ thấy bụi trần mù mịt "Nay xin mượn vật cũ để tỏ chút tình thâm "Chiếc hộp khảm, cành kim thoa, gửi mang về giúp "Thoa để lại một nhành, hộp để lại một mảnh Thoa bẻ nhánh vàng , hộp chia mảnh khảm Chỉ nguyệt tấm lòng bền như vàng như khảm "Kẻ trên đời, người trần thế sẽ còn gặp nhau! Lúc sắp từ biệt còn ân cần nhắc gửi mấy lời Trong đó có lời thề riêng, chỉ hai tấm lòng được biết Đó là đêm mồng bảy tháng bày, tại điện Trường Sinh ( một điện trong cung Hoa Thanh đời Đường) Nửa đêm , người vắng, thề riêng với nhau: "Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh, "Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành " Trời đất dài lâu cũng có lúc hết Hận này đằng dặc, không thủa nào cùng ! Chú thích : (1) Vua Hán : chỉ Đường Minh Hoàng (2) Sáu cung: chỉ những nơi vợ vua ở (3) Hồ Hoa Thanh: Một hồ trên núi Ly Sơn, có suối nước ấm . Đường Minh Hoàng sai xây cung điện ở đấy làm nơi nghỉ, chơi (4)Núi Ly Sơn : tức núi Ly Nhung, ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay (5)Ngư Dương : nơi An Lộc Sơn trấn thủ, thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay (6) Nghê Thường y vũ : Một điệu múa gốc từ Ấn Độ, truyền sang Trung Quốc, Đường Minh Hoàng sửa đổi lại thành một điệu ca vũ trong hoàng cung (7) Đền Tây Cung , (8) điện Nam nội : tên hai cung, Đường Minh Hoàng sau khi chạy loạn trở về truyền ngôi cho con, làm thái thượng hoàng và lần lượt ở hai cung này (9) Tiêu Phòng : tên một điện trong cung Vỵ Ương đời Hán, nơi vợ vua ở (10) Ngói uyên ương : Thụy Văn Đế nằm mơ thấy hai phiến ngói rơi xuống đất, hóa đôi uyên ương, về sau người ta gọi thứ ngói cứ ghép thành hai phiến một để lợp nhà là ngói uyên ương . (11) Lâm Cùng :nay là huyện Cùng Lai, tỉnh Tứ Xuyên (12) Hồng Đô :Nguyên là cửa một cung điện đời Hán ; nay dùng để chỉ nơi kinh đô Dịch Thơ Trường Hận Ca Đức vua Hán mến người khuynh quốc Trải bao năm tìm chuốc công tai Nhà Dương có gái mới choai Buồn xuân khóa kín chưa ai bạn cùng Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên Một cười trăm vẻ thiên nhiên Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa Vua yêu bận ấy mới là Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái Màn phù dung êm ái đêm xuân Đêm xuân vắn vủn có ngần Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm Ba ngìn xinh đẹp chị em Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân Anh em sướng đủ mọi phần Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết Làn gió đưa cao tít Ly cung Suốt ngày múa hát thung dung Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến Khúc Nghê Thường tan biến như không Chín lần thành khuyết bị tung Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam Đi lại đứng hơn trăm dậm đất Cờ thúy hoa bóng phất lung lay Sáu quân rúng rắng làm rầy Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi! Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất Ôi! Thúy Kiều ngọc nát vàng phai Quân vương bưng mặt cho rồi Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn Gió tung bụi mê man tản mác Đường thang mây Kiếm Các lần đi Vắng tanh, dưới núi Nga My Mặt trời nhạt thếch , tinh kỳ buồn tênh Đát Ba Thục non xanh nước biếc Lòng vua cha thương tiếc hôm mai Thấy trăng luống những đau người Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông Phút trời đất quay cuồng vận số Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa Đất bùn chỗ chết còn trơ Thấy đâu mặt ngọc ! Bây giờ Mã Ngôi! Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ Gióng dây cương, ngựa tế về đông Cảnh xua dương liễu, phù dung Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười Phù dung đó, mặt ai đâu tá ? Mày liễu đâu ? Cho lá còn như Càng trông hoa liễu năm xưa Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm Xuân đào lý gió đêm huê nở Thu khi mưa rụng lá ngô đồng Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi ? Vườn lê cũ những ai con hát ? Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng Những ai coi giữ tiêu phòng ? Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn Trước cung điện nhìn sân đêm tối Đom đóm bay gợi mối u sầu Ngọn đền khêu đã cạn dầu Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong ! Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống Năm canh dài chẳng giống đêm xưa Sông Ngân lấp lánh sao thưa Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời ? Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh Trong chăn nằm bên cạnh nào ai ? Cách năm sống thác đôi nơi Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng ? Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông Xót vì vua chúa nhớ nhung Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay Cưỡi luồng gió như bay như biến Tren trời xanh, dưới đến đất đen Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi ! Sực nghe nói tìm đi mé bể, Có non tiên ngoài phía hư không Rỡ ràng cugn điện linh lung Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao! Trong tha thướt biết bao tiên tử Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân Mặt hoa da tuyết trắng ngần Dáng như người ấy có phần phải chăng ? Mái tây gõ cửa vàng then ngọc Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành Nghe tin sứ giả Hán Đình Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực, Mở rèm châu, bình bạc lần ra Bâng khoâng nửa mái mây tà Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu Phớt tay áo bay màu ngọn gió Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã Đội ơn lòng, xin tạ quân vương Từ ngày cách trở đôi phương Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong Nơi đế điện dứt vòng ân ái Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày Cõi trần ngoảnh lại mà hay Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ! Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú ? Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi Thoa vàng hộp khảm phân đôi Nửa xin để lại nửa thời đem đi Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc Tựa hoa vàng bền chắc không phai Thời cho cách trở đôi nơi Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau Ân cần dặn mấy câu lâm biệt Lời thề xưa lòng biết với lòng Là đêm trùng thất ngồi chung Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người Xin kết nguyện chim trời liền cánh Xin làm cây cành nhánh liền nhau Thấm chi trời đất dài lâu Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi ... Bản Dịch:Tản Đà |
#5
|
|||
|
|||
Thay ông hàng xóm nói tâm sự
Người đời sao nghĩ vẩn vơ ? Tấm lòng khi trước bây giờ khác nhau . Trước buồn chẳng được sống lâu , Nay làm ông lão bạc đầu lại chê ! Bản dịch của Hoàng Tạo dịch |
#6
|
|||
|
|||
Đại mãi tân nữ tặng chư kỹ Loạn bồng vi mấn,bố vi cân Hiểu đạp Hàn sơn tự phụ tân Nhất chủng Tiền Đường giang bạn nữ Trước hồng kỵ mã thị hà nhân ? Dịch Nghĩa: Tóc như cỏ bồng rối bù,khăn bằng vải thô Sáng sớm dẫm chân trên núi Hàn gánh củi Một loại gái ở bên bờ sông Tiền Đường Mặc áo đỏ cỡi ngựa,ấy là loại người gì ? Dịch Thơ: Thay lời gái bán củi tặng kỹ nữ Đầu bù như rạ quấn khăn thô Sớm dẫm non Hàn gánh củi khô Gái bến Tiền Đường ai đó nhỉ? Quần hồng cỡi ngựa biết bao cô! Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu |
#7
|
|||
|
|||
Ông Già Đỗ Lăng (1) Ông già Đỗ Lăng, quê Đỗ Lăng, Mấy thửa ruộng xấu cấy quanh năm. Tháng bak hông mưa, lại gió nóng, Mạ không lên được đều chết bỏng. Tháng chín lạnh sớm, sương xuống nhiều, Gié lúa chưa chín đều héo queo. Quan trên biết rõ mà không xét, Thúc lấy đủ tô cầu lập công. Bán đất, cầm dâu nộp cho đủ. Cơm áo sang năm trông vào đâu? Lột áo trên mình ta, Cướp cơm trong miệng ta. Hại người hại vật là hùm sói, Cứ gì cào móng, nghiến răng ăn thịt người! Không biết người nào tâu hoàng đế, Vua thương bíêt được người tác tệ. Chiếu thư nói rõ sự ban ơn; Kinh kì năm nay tha hết thuế. Lí dịch mới đến ngày hôm qua, Tay cầm sắc điện dán thôn nhà. Mười nhà chịu thuế, chín đã đóng, Ơn vua tha thuế cũng bằng thừa! Bản dịch của Doãn Kế Thiện Chú thích: (1) Đỗ Phủ. |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|