Home Rules Contact  
Chợ thông tin Giáo dục Việt Nam
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc

Chợ thông tin Giáo dục Việt Nam Kiến thức xã hội Kiến thức văn học Văn học phổ thông, Truyện lịch sử Việt Nam

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 30-07-2012, 10:28 AM
inexim-iec inexim-iec đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 164
Mặc định Truyện lịch sử Việt Nam

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Nữ tướng Lê Chân

Lê Chân là một tướng tài của Hai Bà Trưng, được tấn phong là Thánh Chân công chúa. Theo bản thần tích hiện còn lưu giữ ở Đền Nghè (thuộc quận Lê Chân), Lê Chân là con ông Lê Đạo và bà Trần Thị Châu, quê ở An Biên, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương (nay thuộc xã An Thủy, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Xuất thân trong một gia đình nề nếp, chuyên nghề dạy học và chữa bệnh, cô gái họ Lê vừa đẹp người đẹp nết. Bị khước từ, Tô Định căm giận, bức hại gia đình bà. Thù nhà, nợ nước, Lê Chân ngầm đem một số người nhà, người làng đến vùng biển An Dương lập trại, lấy tên quê cũ đặt cho miền đất mới, chiêu mộ nhân tài các nơi cùng lo dấy binh chống bọn đô hộ.

Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Lê Chân cùng nghĩa quân ở căn cứ An Biên đã lập nên chiến công vang dội. Khởi nghĩa thành công, Lê Chân đã ra sức tổ chức, xây dựng lực lượng. Khi Mã Viện đem quân sang phục thù, do tình thế bất lợi, bà phải rút quân về bảo vệ căn cứ Mê Linh. Sau khi căn cứ này bị vỡ, Hai Bà Trưng tự vận, Lê Chân đem quân về lập căn cứ địa ở Lạt Sơn, thuộc Hà Nam ngày nay nhằm khôi phục cơ đồ. Một lần nữa, Mã Viên đem lực lượng lớn tới tấn công, nghĩa quân chống trả quyết liệt nhưng không bảo toàn được lực lượng. Cuối cùng Nữ tướng Lê Chân trầm mình xuống sông để bảo toàn danh tiết.

Sau khi bà tuẫn tiết, nhân dân An Biên (phường An Biên, quận Lê Chân ngày nay) dựng đền thờ ở xứ Đồng Mạ (khu vực đền Nghè bây giờ). Đến đời vua thời Trần Anh Tông, bà được phong là Thành hoàng xã An Biên huyện An Dương. Hằng năm, cứ đến ngày sinh mồng 8 tháng 2, ngày giỗ 25 tháng chạp, ngày khánh hạ 15 tháng 8, nhân dân An Biên nô nức đến đền Nghè cùng dân lễ tưởng niệm vị nữ tướng.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
  #2  
Cũ 30-07-2012, 10:28 AM
dongthanhqn dongthanhqn đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 179
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

DANH TƯỚNG NHÀ TÂY SƠN

BÙI THỊ XUÂN (Bình Định)
(1752 - 1802)



Trong công cuộc giữ nước và dựng nước, Lịch sử Việt Nam còn ghi lại nhiều chiến công hiển hách, ngời sáng của bao liệt sĩ nữ văn võ song toàn, nhất là ý chí son sắc, dũng cảm, quyết một lòng vì dân, vì nước như: Bà Triệu, Hai Bà Trưng, Thái hậu Ỷ Lan, Bát Nàn tướng quân, nữ tướng Bùi Thị Xuân - là một danh tướng đã phò, giúp nhà Tây Sơn từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến oanh liệt diệt nội loạn, chống ngoại xâm, một lòng can đảm chung thủy với nhà Tây Sơn, cho đến giây phút cuối cùng bị Gia Long gia hình nơi pháp trường.

Bà Bùi Thị Xuân sinh năm 1752, tại xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Bà con ông Bùi Đắc Chí - gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú ruột. Thuở nhỏ, bà được cha cho theo học võ với võ sư Ngô Mạnh. Bà là một anh thư văn võ toàn tài, nên nhiều nơi đến xin hỏi bà làm vợ, bà đều từ chối.

Về sau, bà xin cha mẹ cho được "thử tài" với người đến cầu hôn. Nếu đánh thắng được bà, bà sẽ ưng thuận làm vợ. Nhiều trai tráng, võ sĩ trong huyện xin được đến so tài. Song không ai đánh thắng bà được. Người chiến thắng bà chính là Trần Quang Diệu, sau là một võ tướng tài giỏi của nhà Tây Sơn.

Hai vợ chồng bà đều đồng tâm ra phò giúp đỡ cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Bà được Nguyễn Huệ giao cho luyện tập đàn voi trận tại gò Xuân Hòa (huyện Tây Sơn). Bà đã huấn luyện thuần thục cả một đà voi chiến, giúp nghĩa quân Tây Sơn làm nên chiến thắng đánh đuổi hai mươi vạn quân Thanh. Đặc biệt nhất là đồn Ngọc Hồi: mở đầu trận đánh, hơn một trăm thớt voi chiến của bà Bùi Thị Xuân ào ào tiến về đồn giặc. Tiếp sau là đội quân mang những tấm lá chắn bằng gỗ, quấn rơm tẩm nước, bảo vệ bộ binh theo sau. Khi đến sát đồn giặc vua Quang Trung truyền lệnh cho Tượng binh và Bộ binh xông tới. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Trưa mồng 5 tết Kỷ Dậu (1789) vua Quang Trung trong bộ chiến bào sạm đen khói thuốc súng, cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long...

Bà Bùi Thị Xuân đã cùng chồng là danh tướng Trần Quang Diệu, trong suốt 17 năm liên tục chiến đấu, phong trào Tây Sơn đã lật đổ các chính quyền phong kiến thối nát: Nguyễn, Trịnh, Lê, xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng thống nhất quốc gia. Đồng thời, phong trào Tây Sơn đánh tan các cuộc xâm lược của quân Xiêm, Thanh, bảo vệ nền độc lập và lãnh thổ của Tổ quốc.

Nữ danh tướng Bùi Thị Xuân là người đã từng trải trận mạc, lập nhiều chiến công lớn, kẻ địch rất khiếp sợ uy danh của bà, nhưng bà cũng rất cảm phục tấm lòng độ lượng: không bao giờ bà giết hại kẻ đã đầu hàng.

Tháng 5 năm Tân Dậu (1801) thành Phú Xuân thất thủ, bà phò vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc.

Qua tháng 11, vua Tây Sơn đem quân bốn trấn ở Bắc và quân Thanh Hóa Nghệ An non ba vạn người vượt Linh Giang định về chiếm lại Phú Xuân, bà dẫn 5 ngàn thủ hạ tùng chinh trước sức tấn công của quân Tây Sơn, tướng chúa Nguyễn, lui binh về Đồng Hới (Quảng Bình).

Tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1802) tướng Tây Sơn là Nguyễn Quang Thùy tiến đánh lũy Trấn Ninh không đổ, vua Tây Sơn đã nản lòng, bà nhất định không chịu, xin cho được tự đốc chiến. Đang lúc quân bà công hãm thành lũy địch, bỗng được tin quân nhà Tây Sơn bị đánh bại ở cửa Nhật Lệ, bà đành phải lui binh.

Bấy giờ, chồng bà đang giữ thành Quy Nhơn, nghe tin nhà Tây Sơn bị thua ở Nhật Lệ và Trấn Ninh, vội cùng tướng Võ Văn Dũng dẫn tượng binh theo thượng đạo qua Ai Lao (Lào) ra Nghệ An để hiệp binh với vua Tây Sơn. Nhưng ông vừa tới huyện Hương Sơn, thì quân nhà Nguyễn đã lấy được Nghệ An rồi (tháng 6 năm Nhâm Tuất - 1802).

Trần Quang Diệu gặp lại bà Bùi Thị Xuân, cả hai ông bà cùng mấy người thân tín đưa nhau về huyện Thanh Chương. Mấy hôm sau, gia đình bà bị bắt, bị giải về Phú Xuân để chịu chung số phận với dòng họ nhà Tây Sơn.

Đến ngày mồng 6 tháng 11 năm Nhâm Tuất (nhằm ngày 30 tháng 11 năm 1802) gia đình bà bị đưa ra pháp trường để thọ hình. Theo sách Thiên Nam Nhân Vật Chí thì bà Bùi Thị Xuân bị lăng trì (đốt cháy) cả thi hài. Nhưng theo giáo sĩ Dela Bissa Chère trong một tác phẩm ông viết về thời Tây Sơn lúc bấy giờ đang ở Nghệ An, thì nữ tướng Bùi Thị Xuân và người con gái đã bị xử cho voi giày đầy đủ như sau:

"... Về quan Thiếu phó Trần Quang Diệu là kẻ được trong gia đình cùng tất cả nhưng kẻ quen thuộc yêu kính - ông đã làm một việc hiếu thảo: Trước khi bị xử, ông đã tâu đến vua Gia Long, rằng mẹ ông đã già trên 80 tuổi, không thể làm hại cho xã tắc được, xin vua tha chết cho bà. Bà đã mang tội vì tại ông. Ông đã được như ý. Trần Quang Diệu đã bị xử chém".

Ông có một cô gái 15 tuổi, xinh đẹp, thông minh, bị xử cho voi giày. Khi cô thấy một con voi say tiến về phía cô, để rồi tung cô lên trời - Cô đã thét lên một tiếng não ruột: "Mẹ ơi, cứu con với". Mẹ cô là vị nữ tướng đã trả lời: "Con đòi mẹ cứu làm sao, vì mẹ cũng không cứu được chính mình - con nên can đảm chết đi với cha mẹ, còn hơn là sống với bọn người dã man kia".

Voi đã hất tung cô lên trời hai lần, lấy ngà đỡ, giày vật cho đến tan xác!

Đến lượt bà Thiếu phó Bùi Thị Xuân hiên ngang tiến đến trước mặt voi để khiêu khích nó. Khi bà đến gần, người ta kêu bà bảo bà quỳ xuống cho voi dễ cuốn, nhưng bà không nghe - cứ đi thẳng đến voi. Người ta còn kể rằng dù voi bị kích thích nhiều, cũng còn phải dục ép lắm, lấy dùi sắt đâm vào mông voi cho voi đến hất tung bà lên. Dường như nó còn nhận được bà là người chủ cũ huấn luyện nó, là ân nhân của nó.

Trước khi gia hình, người đàn bà can đảm đó đã bảo mang đến trong ngục cho bà nhiều tấm lụa. Bà lấy lụa quấn chặt ống chân, các phần thân thể bà cho đến trên bụng ở phía trong quần áo. Bà có ý làm thế để tránh bị voi giày, phải chết trần truồng như những người trước đó.

Người ta truyền lại rằng: "Chỉ có vị liệt nữ danh tướng đó, cùng chồng và dòng họ của Tây Sơn là không đổi sắc mặt khi giờ chết đến..."

Người sống chỉ một lần chết, nhưng sống lâu, hay chết sớm, điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng nhất là phải sống như thế nào? Nữ tướng Bùi Thị Xuân đã sống một đời cao đẹp, hiến dâng tất cả cho đất nước - và đã chết trong lòng dân tộc muôn đời còn nhớ thương, ca ngợi bà...

Bùi Thị Xuân tướng dưới cờ
Lưng voi đuổi giặc cõi bờ yên vui.
Trả lời với trích dẫn


  #3  
Cũ 30-07-2012, 10:28 AM
yensaokh yensaokh đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 188
Mặc định

Huyền Trân Công Chúa


Ngày xưa vào đời nhà Trần, vua Trần Nhân Tông sau khi truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên tu ở núi Yên Tử.

Mến cảnh núi sông Vua thường du ngoạn khắp nơi. Vào đến đất Chiêm Thành, vua Chế Mân biết vị du khách là Thượng Hoàng của nước Đại Việt nên tiếp đãi thật nồng hậu.

Thầm nuôi mộng mở mang bờ cõi, thêm vào tình cảm nồng hậu của vị vua trẻ tuổi Chiêm Thành Chế Mân, vua Trần Nhân Tông hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân.

Vua Chế Mân biết được ý định, lòng mừng khắp khởi vội cho sứ giả Chế Bồ Đài mang đoàn tùy tùng hơn trăm người cùng với vàng bạc châu báo, trầm hương sang Đại Việt dâng sinh lễ cầu hôn.

Triều thần nhà Trần không tán thành cuộc hôn nhân. Vua Chế Mân tiến lễ liên tiếp trong 5 năm, cuối cùng tình nguyện dâng hai châu Ô, Lý - từ đèo Hải Vân Thừa Thiên Huế đến Bắc Quảng Trị ngày nay, làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân.

Huyền Trân về làm Hoàng Hậu nước Chiêm Thành được một năm thì vua Chế Mân mất. Thế Tử Chiêm Thành phái sứ giả sang Đại Việt dâng voi trắng Bạch Tượng cáo về việc tang.

Theo tục lệ Chiêm Thành, khi vua mất thì cung phi và Hoàng hậu phải lên hỏa đàn để tuẫn táng (thiêu sống).

Vua Trần Anh Tông hay tin sợ em gái là công chúa Huyền Trân bị hại, bèn sai tướng Trần Khắc Chung là người tình cũ của công chúa Huyền Trân, hướng dẫn phái đoàn sang Chiêm Thành lấy lý do là điếu tang để thừa dịp cướp Công Chúa mang về.

Sứ giả Trần Khắc Chung tìm lời giải thích cho Thế Tử Chiêm Thành.

- "Quốc Vương đây mất, nếu đem Hoàng Hậu Huyền Trân tuẫn táng thì việc cúng bái không người lo cho Quốc Vương hồn sẽ không siêu thoát, chi bằng để Hoàng Hậu ra biển chiêu hồn, đón linh hồn Quốc Vương về rồi cùng hỏa táng sau".

Lúc bấy giờ cung nữ của Huyền Trân biết Công Chúa sắp bị thiêu sống, thật bối rối nhưng không biết phải làm sao. May thay khi nghe tin sứ giả Trần Khắc Chung đến mới cùng nhau hát lên nhằm nhắn nhủ với Trần Khắc Chung:

Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai đem công Chúa lên thang mà về

Thế Tử Chiêm Thành nghe lời sứ giả Trần Khắc Chung, để Huyền Trân Công Chúa xuống thuyền ra giữa biển làm lễ Chiêu Hồn cho Vua Chế Mân.

Trần Khắc Chung đã bố trí sẵn, đợi thuyền Công Chúa ra xa bờ, dùng chiếc thuyền nhẹ xông tới cướp Công Chúa. Tình huống quá bất ngờ quân hầu Chiêm Thành không trở tay kịp, Trần Khắc Chung đưa Công Chúa sang thuyền mình và hướng thẳng về phương Bắc. Huyền Trân Công Chúa hết sức vui mừng, không ngờ được gặp lại người tình cũ, vì đại cuộc mà gác bỏ tình riêng, hơn một năm sau đoàn thuyền mới về đến kinh đô.

Trên con đường sang Chiêm Quốc làm vợ Vua Chế Mân, Công Chúa Huyền Trân sáng tác bài thơ "Non Nước Ngàn Dặm" còn được lưu truyền cho đến ngày nay:

Nước non ngàn dặm ra đi

Mối tình chi

Mượn màu son phấn

Đền nợ Ô, Lý

Xót thay vì

Đang độ xuân thì

Số lao đao hay là duyên nợ gì

Má hồng da tuyết

Cũng như liều hoa tàn trăng khuyết

Vàng lộn theo chì

Khúc ly ca sao còn mường tượng nghe gì

Thấy chim lồng nhạn bay đi

Tình lai láng

Hướng dương hoa quỳ

Dặn một lời Mân Quân

Như chuyện màu như nguyện

Đặng vài phân

Vì lợi cho dân

Tình đem lại mà cân

Đắng cay muôn phần.

Cảm phục trước sự hy sinh cao quý, vì nợ nước gác bỏ tình riêng, một nhà thơ khác vịnh Huyền Trân Công Chúa:

Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười

Vốn đà không mất lại thêm lời

Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm

Một gái Huyền Trân của mấy mươi

Lòng đó khen ai lo việc nước

Môi son phải giống mãi trên đời

Châu đi rồi lại Châu về đó

Ngơ ngẩn trông nhau mấy đứa Hời.

Trong dân gian, người ta cũng bày tỏ lòng thương tiếc cho Công Chúa Huyền Trân:

Tiếc thay cây Quế giữa rừng

Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo

Tiếc thay hột gạo trắng ngần

Đã vo nước đục lại vần lửa rơm.
Trả lời với trích dẫn


  #4  
Cũ 30-07-2012, 10:28 AM
myduco myduco đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 157
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

NỮ ANH HÙNG NƯỚC VIỆT HAI BÀ TRƯNG



CHƯƠNG 1
HƠN HAI THẾ KỶ BỊ NHÀ HÁN ĐÔ HỘ
Sau khi Triệu Đà thôn tính được Âu Lạc (năm 179 T.T.L) các triều đại phong kiến phương Bắc nối tiếp nhau đô hộ nước ta. Âu Lạc bị chia thành quận, huyện do chính quyền người Hán cai quản.

Bọn quan lại đô hộ tìm mọi cách áp bức và bóc lột người dân Việt Âu Lạc. Chúng bắt dân ta phải lên rừng săn voi, tê ngưu, bắt chim quý, đẵn gỗ trầm. Xuống biển lặn mò ngọc trai, bắt đồi mồi, khai thác san hô để cống nạp cho chúng hàng tháng; mỗi năm sưu thuế càng nặng...

Chúng đưa người Hán sang ở lẫn với dân ta, bắt dân ta phải theo phong tục, tập quán của người Hán; học chữ Hán, sống theo luật pháp của người Hán. Bọn quan lại cai trị đã dốc sức thực hiện chủ trương “đồng hóa” người dân Âu Lạc thành dân Hán, để có thể thống trị vĩnh viễn; biến nước Âu Lạc thành một quận huyện của Trung Quốc.

Biết được dã tâm của bọn chúng, người dân Việt đã cương quyết chống lại sự đồng hóa của quân đô hộ; luôn giữ gìn các phong tục, truyền thống vốn có của mình. Đồng thời, cũng tiếp thu cái hay, cái đẹp của văn hóa nước ngoài; như nghề làm giấy, thổi thủy tinh, làm đồ trang sức bằng vàng, bạc...

Không những thế, nhân dân ta còn liên tục nổi dậy với vũ khí, gậy gộc; đánh chống lại sự tàn bạo, dã man của quân đô hộ để giành lại nền độc lập...

Mở đầu là cuộc khởi nghĩa oai hùng, lẫm liệt của Hai Bà Trưng - hai người con gái nước Việt...



Dưới ách đô hộ của nhà Hán, nhân dân ta vô cùng cực khổ lầm than.



CHƯƠNG 2
VỀ CUỘC ĐỜI CỦA HAI BÀ TRƯNGQuan Lạc tướng ở huyện Mê Linh, làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, có hai người con gái : Người chị tên là Trưng Trắc; em là Trưng Nhị.

Hai chị em nhà họ “Trưng” này đã được gia đình quan Lạc Tướng Mê Linh hết sức yêu quý; không những cả hai chị em đều xinh đẹp, mà còn rất thông minh; có lòng nhân ái rộng lớn.

Quan Lạc Tướng đã nhờ thầy chỉ dạy cho hai chị em từ lúc còn thơ trẻ - về “đạo làm người”, về “nhân nghĩa” và cả về võ nghệ.

Trưng Trắc thường rủ em là Trưng Nhị cùng đi ngao du đây đó; khắp các thôn bản; để được gần gũi người dân, thăm hỏi và giúp đỡ gia đình họ.

Trưng Trắc thường xin cha mẹ thóc gạo, vải vóc, thực phẩm - tự tay mang đến giúp những làng bản xa xôi, đang sống cảnh khốn khổ.

Hằng ngày, được đi đây đó; hai chị em đều nhìn thấy rõ cảnh tượng đói khát, lầm than, tăm tối của người dân Âu Lạc.

Có nhiều gia đình có chồng, con lên tận rừng sâu để săn bắt voi, tê giác, chặt gỗ trầm... về “nộp thuế” cho bọn quan quân đô hộ nhà Hán; đã bị mất tích chết luôn trong rừng thẳm, hay trở về với thương tích thê thảm trên mình...

Người xuống biển lặn tìm ngọc trai, san hô thì bị chết ngộp vì đói lạnh - bị cá sấu cướp đi tay chân - hay có ra đi mà không có trở về...
Mỗi năm thuế càng cao, sưu càng nặng - người dân Âu Lạc không chốn nào được yên ổn, no đủ cả ?

Quê hương, làng bản chìm trong màn tang tóc, thống khổ, Hai BàTrưng đã nhiều phen thưa trình với cha về nỗi ước mong được góp phần làm thay đổi tương lai đất nước...

Nghe lời khuyên dạy của cha, ngày đêm hai chị em ra sức luyện tập võ thuật, kiếm cung, cùng với những người thầy được chiêu mộ giỏi nhất nước. Trưng Trắc rất có tài về bắn cung, còn Trưng Nhị lại giỏi về kiếm thuật.

Trưng Trắc đã từng bắn chim đang bay giãy chết. Trưng Nhị vừa phi ngựa, hay cỡi voi, vừa đánh trả đội quân giã bao vây nàng hơn mấy chục người...




Hai Bà Trưng luyện tập võ thuật kiếm cung




CHƯƠNG 3
CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG

Năm Giáp Ngọ (34TL) là năm kiến võ thứ 10, Vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái Thú quận Giao Chỉ (nước Việt, Âu Lạc).

Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác; người Giao Chỉ đã có lòng căm thù quân Hán - nay càng thêm oán hận.

Quan Thái Thú bày thêm nhiều thứ thuế mới, thu góp hết tài sản quý báu của đất nước; một phần đem về nước làm của riêng, một phần cống nộp cho vua để lấy công. Bởi vậy đời sống nô lệ của dân Âu Lạc - Giao Chỉ, không có bút mực nào kể xiết !

Để giữ yên chức tước, quyền lợi, bổng lộc; Tô Định thẳng tay đàn áp, bắt bớ, giam cầm, xử chém nhiều nhà Cách mạng yêu nước, muốn khởi nghĩa đánh dẹp quân Hán, giành lại độc lập, tự do, cho dân tộc.

Năm Canh Tý (40TL) - Thi Sách, người ở quận Châu Diên (Phủ Vĩnh Tường, trước thuộc về Sơn Tây - nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên) là chồng của Trưng Trắc; đang chiêu tập binh sĩ, liên kết với người cùng chí hướng, yêu nước ở các quận lân cận là Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố... để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đuổi quân Hán...

Cuộc khởi nghĩa đang ở vào giai đoạn quy tụ lực lượng - binh lính, lương thực. Thì Thi Sách và một số thủ lĩnh các quận huyện bị Tô Định vây bắt.

Tô Định đã cho xử chém Thi Sách là người đầu cuộc nổi dậy (40TL). Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị - và dân Âu Lạc vô cùng căm phẫn. Bà Trưng Trắc đã vì “thù nhà nợ nước” - đứng ra lãnh đạo binh sĩ, tiếp tục sự nghiệp khởi nghĩa của dân - giúp nước của chồng đã bị dang dở.

Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị đã phất cờ khởi binh bên bờ sông Hát Giang. Hai bà đều cỡi voi, mặc chiến bào, cầm đầu đoàn quân nổi dậy, ào ạt tiếng công đánh chiếm toàn huyện Mê Linh một cách nhanh chóng.

Từ Mê Linh nghĩa binh tiến xuống đánh chiếm Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nộ). Đoàn quân đi đến đâu, đều được dân chúng nghênh đón, ủng hộ lương thực, vũ khí, gậy gộc. Dân chúng khỏe mạnh, dầu già hay trẻ, đều tham gia vào đoàn quân, tấn công thành Luy Lâu - trụ sở chính của quân đô hộ (Thuận Thành - Bắc Ninh).





Hai Bà Trưng cỡi voi cầm quân đánh giặc

Trước sức mạnh vỡ bờ ào ạt của nghĩa binh; quân Hán tưởng như bị những đòn sét đánh, không dám chống cự, bỏ hết của cải, vũ khí lo chạy thoát thân !

Lúc bấy giờ, Tô Định được tin cấp báo các thành ở quận, huyện đã bị mất; sợ hãi tự cắt tóc, cạo râu - mặc giả dân thường, lẫn vào đám tàn quân, chạy trốn về Hải Nam - Trung Quốc.

Trong vòng chưa đầy một tháng, nghĩa quân đã thu phục được toàn bộ 65 thành bị quân đô hộ nhà hán chiếm đóng trên hai trăm năm...

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã thắng lợi hoàn toàn. Sau hơn hai thế kỷ bị phong kiến nước ngoài đô hộ (179TL - 40TL), nhân dân ta lần đầu tiên đã giành được độc lập...

Tại đất Mê Linh, Hai Bà Trưng đã làm lễ cáo tế Trời Đất - lên ngôi vua - hiệu là “Trưng Nữ Vương” - bắt đầu công cuộc xây dựng lại đất nước...





Hai Bà Trưng lên ngôi “Trưng Nữ Vương”


CHƯƠNG 4
NĂM THÁNG CUỐI CÙNG CỦA HAI BÀ TRƯNG

Công việc đầu tiên sau khi chọn đất quê nhà Mê Linh làm kinh đô; Hai Bà Trưng đã đem các kho lương thực thực của giặc, phân phát cho dân nghèo đang thiếu đói. Hủy bỏ các loại siêu thuế bất chánh; tổ chức lại guồng máy cai trị dân chủ tại các quận.

Ngoài tài thao lược võ thuật, Trưng Nữ Vương còn có lòng nhân từ, có ý chí cao cả; đêm ngày dốc sức cùng em, cùng các thủ lĩnh xây dựng lại quê hương Âu Lạc đã bị vơ vét kiệt quệ về kinh tế, suy yếu cùng cực về tinh thần.

Nhân dân Ân Lạc luôn đồng lòng, làm theo mọi lời kêu gọi, chủ trương của Trưng Nữ Vương, nên cuộc sống đã sớm ổn định về mọi mặt. Chưa bao giờ dân Việt được hưởng trọn vẹn sự tự do, yên vui, hạnh phúc như thời gian này...

Công cuộc tái thiết, xây dựng lại đất nước chưa được ba năm - thì năm Tân Sửu (41) Vua quan Vũ sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm phó tướng, cùng với quan Lâu Thuyền tướng quân là Đoàn Chi sang đánh Trưng Vương.

Mã Viện là một một danh tướng nhà Đông Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn khỏe mạnh, đem quân đi men theo bờ bể phá rừng đào núi làm đường sang đến Lãng Bạc; gặp quân Trưng Vương - hai bên đánh nhau mấy trận...

Quân của Trưng Vương là quân ô hợp, chưa được rèn luyện kỹ, chưa có kinh nghiệm chiến trận; nên không chống nổi quân của Mã Viện đã từng đánh giặc nhiều phen, khá tinh nhuệ.

Hai Bà Trưng cho quân rút về đóng ở Cấm Khê (phủ Vĩnh Tường - Vĩnh Yên) để củng cố lực lượng, phòng thủ các quận gần Kinh Đô.

Mã Viện tiến quân lên đánh, quân Hai Bà vỡ tan cả, vì thế lực quân Hán rất đông - tiến đánh ào ạt để trả thù cho cái nhục mấy năm trước.

Hai Bà chạy về đến xã Hát Môn thuộc huyện Phú Lộc (nay là huyện Phúc Thọ, Sơn Tây) - thế bức qua, biết không thể chống cự nổi đám quân hiếu chiến xâm lược - Hai Bà Trưng liền quỳ xuống bên bờ sông Hát Giang (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng Hà) - hướng về Kinh Đô quê nhà Mê Linh bái lạy tạ lỗi rồi nhảy xuống sông hát tự vẫn; không để bị bắt về tay giặc : Đó là ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43).

Những tướng của Hai Bà là Đô Lương chạy vào giữ huyện Cư Phong, thuộc quận Cửu Châu trong một thời gian ngắn. Quân của Mã Viện hùng hổ tiến đánh, nhưng thiệt hại nặng mới chiếm được thành. Quân của Đô Lương tan rã...

Hai Bà Trưng làm Vua được 3 năm - nhưng lấy tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn, đánh đuổi được một hệ thống đô hộ hơn 2 thế kỷ; giành lại được độc lập cho đất nước - thật đã làm cho Vua tôi nhà Hán phải khiếp sợ, nể phục. Uy danh, tiếng thơm của Hai Bà vẫn còn truyền giỏi mãi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Dân Tộc Việt.

Đến ngày nay, nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà để ghi tạc công ơn to lớn của hai người nữ anh hùng đầu tiên của Việt Nam. Tại làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây; và ở bãi Đồng Nhân gần Hà Nội, đều có đền thờ Hai Bà đến ngày Mồng 6 tháng 2 thì có lễ Hội...
Trả lời với trích dẫn


  #5  
Cũ 30-07-2012, 10:28 AM
cuahangso5 cuahangso5 đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 175
Mặc định

Đinh Tiên Hoàng Đế (Đinh Bộ Lĩnh) - Đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước




CHƯƠNG I

THỜI NIÊN THIẾU
Đinh Bộ Lĩnh (1) sinh năm 923 - người ở Hoa Lư Động (Huyện Gia Viễn, Tỉnh Ninh Bình), con ông Đinh Công Trứ làm Thứ Sử ở Hoan Châu về đời Dương Diên Nghệ và đời Ngô Vương Quyền.

Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh phải theo mẹ về ở quê. Bộ Lĩnh được mẹ lo cho việc học tử tế. Trong làng, có thầy đồ nổi tiếng văn hay chữ tốt; bà cho Bộ Lĩnh theo học.

Bộ Lĩnh rất thông minh, nhưng ít chăm chỉ. Tính tình rất hiếu động. Có nhiều mưu trí vượt hơn lũ trẻ cùng lớp tuổi với ông ở trong lòng…

Ông thường theo chơi với đám trẻ chăn bò ngoài đồng cỏ, cạnh bìa rừng. Nhiều lúc mê chơi, bỏ quên giờ học, mẹ ông phải "cầm roi" đi gọi về. Trò chơi ông thích nhất là chia phe ra để "đánh giặc giả". Đám trẻ chăn bò được ông tụ tập lại, khoảng hai mươi đứa, chia làm hai phe. Trận đánh kéo dài bao lâu, cuối cùng phe Bộ Lĩnh cũng toàn thắng - bắt được nhiều tù binh, giết được nhiều "tên giặc" nhất. Bộ Lĩnh cho quân của mình bẻ bông lau làm cờ. Cờ bông lau luôn chiến thắng oanh liệt. Đám trẻ trong làng rất kính sợ Bộ Lĩnh , gọi Bộ Lĩnh bằng "anh", dầu có đứa bằng tuổi, hay lớn hơn.

Sau mỗi trận đánh thắng vẻ vang ấy, Bộ Lĩnh bắt "quân lính" làm kiệu bằng tay khiêng ông đi dọc bìa rừng. Toán đi sau, tay cầm cờ bông lau, reo hò tung hô ầm ĩ vang động một góc núi.




Đinh Bộ Lĩnh lấy bông lau làm cờ đánh giặc giả, với bọn trẻ chăn bò


Trong dân gian có truyện kể lại rằng, một hôm Bộ Lĩnh "đại thắng", hứng chí ra lệnh bắt một con nghé (bò nhỏ, con) ra làm thịt để "khao quân". Đám trẻ tuân lệnh. Chúng chạy vào xóm mượn xoong nồi, dao, tô bát... ra để làm thịt bò ! Cùng nhau ăn uống no nê rồi, chiều lùa bò về, "Tên lính" có bò bị làm thịt hoảng sợ, khóc lóc. Bộ Lĩnh trấn an, bày kế để về nhà khỏi bị chủ đánh : Ông dã để dành sẵn chiếc đuôi bò, bèn đến cắm vào một hang đá. Sai đám trẻ lấp đá, chừa đuôi bò thò ra một đoạn.

Ông chỉ vào đuôi bò - bảo "tên lính" mất bò nói:

- Mày cứ về thưa lại là bò chạy kẹt vào hang đá... Nếu không tin, cứ lên đây mà coi !


CHƯƠNG II

LOẠN 12 SỨ QUÂN
Thế lực nhà Ngô bấy giờ ngày mỗi kém, giặc giã nổi lên khắp mọi nơi. Nam Tấn Vương (Ngô Xương Văn) phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái Bình, không may bị tên bắn chết.

Từ khi Dương Tam Kha tiến ngôi nhà Ngô đến lúc bị truất bỏ, rồi Ngô Xương Văn lên ngôi - những người thổ hào ở các nơi như bọn Trần Lãm, Kiều Công Hoãn... đều xướng lên độc lập, tự trị, xưng là Sứ quân; làm chúa một vùng - không chịu về thần phục Triều Ngô. Bởi vậy, nhà vua cứ phải đi đánh dẹp mãi, mà không yên được ! Đến khi Nam Tấn Vương bị giặc bắn chết, con là Ngô Xương Xí (Thiên Sách Vương) lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy suy nhược lắm, không ai chịu thần phục nữa ! Ngô Xương Xí phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Tướng của nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc cũng giữ một chỗ, xưng là Sứ quân.

Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 Sứ quân, gây ra cảnh nôi loạn kéo dài hơn 20 năm.



Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Động Giang là một trong 12 Sứ quân


Mười hai Sứ quân đó là:

1. Ngô Xương Xí đóng giữ Bình Kiều (nay là làng Bình Kiều, phủ Khoái Châu, Hưng Yên).

2. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ Đỗ Động Giang (thuộc huyện Thanh Oai).

3. Trần Lãm Xưng là Trần Minh Công trấn giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, tỉnh Thái Bình).

4. Kiều Công Hãn, xưng là Kiều Tam Chế giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).

5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm Tam Đài (phủ Vĩnh Tường).

6. Ngô Nhất Khánh, xưng là Ngô Lãm Công đóng giữ Đường Lâm (Phúc Thọ - Sơn Tây).

7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang Công đóng giữ Siêu Loại (Thuận Thành).

8. Nguyễn Thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh).

9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tà Công chiếm đóng Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).

10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).

11. Kiểu Thuận, xưng là Kiểu Lịnh Công, trấn đóng Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).

12. Phạm Bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu (Hưng Yên).


CHƯƠNG III

ĐINH BỘ LĨNH VỀ GIÚP SỨ QUÂN TRẦN MINH CÔNG
ĐÁNH DẸP ĐƯỢC 2 SỨ QUÂN ĐẦU TIÊN
Tuy ở quê nhà Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh được dân làng quý phục, theo ông rất đông; nhưng vì không hòa với người chú - Bộ Lĩnh cùng con là Đinh Liễn sang giúp cho sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu (Phủ Kiến Xương, Thái Bình).

Trần Minh Công thấy tướng Bộ Lĩnh khôi ngô, lại có chí khí, ứng đáp binh sách làu làu; tin tưởng cho giữ binh quyền. Sau đó ít lâu, Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư. Ngày đêm chiêu mộ binh sĩ, những người hào kiệt, hùng cứ một phương, đợi ngày dẹp loạn.

Năm Tân Hợi (951) đời Hậu Ngô Vương, Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương đã đem quân vào đánh mấy lần, nhưng không được. Uy thế của Bộ Lĩnh ở Hoa Lư rất mạnh, dân chúng hết lòng tôn sùng, ủng hộ ông như xưa.

Đinh Bộ Lĩnh nói với quân sĩ :

- Thuở trước, ta có lòng về giúp cho Minh Công dẹp loạn, dựng nghiệp lớn - nay Minh Công đã mất - chí ta quyết không thể để cho nước nhà nội loạn, xâu xé, đánh giết nhau kéo dài… Các ngươi hãy hết lòng giúp ta thống nhất giang sơn Đại Việt. Ta sẽ tùy công trạng mà tưởng thưởng xứng đáng; các ngươi hãy tin ở ta…




Đinh Bộ Lĩnh về giúp Sứ quân Trần Minh Công

Nhà Ngô suy sụp, Ngô Xương Xí chỉ chiếm giữ một vùng nhỏ ở Bình Kiều, không còn hy vọng dựng lại nghiệp cũ. Đinh Bộ Lĩnh cho quân đi do thám tất cả 11 sứ quân, để chuẩn bị tiến công dẹp loạn.

Tin của quân thám báo cho biết, Sứ quân Phạm Phòng Át ở Đằng Châu (Hưng Yên) chưa đủ mạnh bằng các Sứ quân khác. Đinh Bộ Lĩnh bàn với các tướng về phò giúp ông nên đánh dẹp dần từng Sứ quân - từ yếu đến mạnh. Thâu gồm được các Sứ quân yếu là có thể tiêu diệt được các sứ quân khác, dầu là hùng mạnh.

Bộ Lĩnh ra lệnh xuất quân tiến về Đằng Châu, ông thánh chinh cầm quân đi đầu. Cây cờ bông lau thuở nhỏ, đã được thay bằng ngọn cờ lớn đỏ chói, thêu bốn chữ vàng: "Cứu dân, dẹp loạn"; phất phới tung bay giữa hàng quân đang ồ ạt xuất trận.

Quân của Phạm Phòng Át trấn giữ dọc ranh giới đánh trả không được, phải rút chạy về phủ Sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh điều binh thần tốc, vây hãm phủ Sứ, cho loa gọi Phạm Bạch Hổ ra hàng, để tránh đổ máu. Ông không muốn gây tổn hại cho binh sĩ, dân chúng; nên chỉ siết chặt vòng vây mà không đánh.

Sau mấy ngày bị vây hãm, lượng sức không thể chống cự với quân Đinh Bộ Lĩnh - Sứ quân Phạm Phòng Át đã xin hàng…

Hàng được Sứ quân Phạm Phòng Át xong, Đinh Bộ Lĩnh cắt tướng ở lại giữ phủ Sứ - điều hành mọi việc; liền dẫn quân tiến đến Đỗ Động Giang của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, với khí thế rất hăng.

Đỗ Cảnh Thạc nguyên là Tướng nhà Ngô, ông giỏi việc binh bị - nên đốc quân ra nghinh chiến với Đinh Bộ Lĩnh.

Sau hai ngày đêm giao chiến ác liệt quanh Đỗ Động; Đỗ Cảnh Thạc bị Đinh Bộ Lĩnh chém trọng thương, phải chạy về phủ. Quân Cảnh Thạc tan rã, rút chạy về cố thủ ở phủ Sứ. Quân Đinh Bộ Lĩnh đuổi theo, phá được quân Cảnh Thạc, chiếm lấy phủ Sứ Đỗ Động Giang…

Xuất quân lần đầu, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp yên được hai sứ quân; thanh thế lừng lẫy… dân chúng ở hai phủ Sứ đón chào Đinh Bộ Lĩnh như một vị anh hùng…


CHƯƠNG IV
ĐINH BỘ LĨNH TIẾP TỤC DẸP LOẠN,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Trong lịch sử Việt Nam chưa có thời kỳ nào đất nước bị chia cắt thành nhiều mảnh; các phe xâu xé, tranh giành nhau, gây cảnh nội loạn dài đến hơn 20 năm như thời Hậu Ngô Vương này.

Dân chúng ở các vùng có Sứ quân cai trị, tha hồ đặt ra luật lệ riêng; luôn bị áp chế, đi lính, đóng góp cho việc binh đao - rất là cực khổ. Đinh Bộ Lĩnh đã nhìn thấy được quốc nạn, cùng nguyện vọng tha thiết của người dân, nên quyết tâm đánh dẹp các Sứ quân; đem giang sơn về một mối.

Chín Sứ quân còn lai tương đối mạnh, nhưng Đinh Bộ Lĩnh quyết định xuất quân sang phủ Khoái Châu, đánh vào Bình Kiều của Ngô Xương Xí. Ông nói với các tướng sĩ :

- Hôm nay chúng ta sẽ tiến binh về Hưng Yên, đánh Khoái Châu, để tiêu diệt Thiên Sách Vương là ông vua nhu nhược cuối cùng của nhà Ngô. Còn Ngô Xương Xí là còn nội loạn và tai họa về sau cho công cuộc thống nhất đất nước. Các ngươi thấy thế nào ?

Toàn thể tướng sĩ dưới cờ, đều đồng thanh hô vang :

- Xin tuân lệnh…

Đoàn quân của Đinh Bộ Lĩnh nay đã hùng mạnh hơn gấp nhiều lần, vì các tướng và binh lính của 2 sứ quân bại trận đều theo giúp ông rất đông. Đinh Bộ Lĩnh cỡi ngựa, dương cờ đi đầu, trong tiếng trống thúc quân vang rền một góc rừng…


Quân Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp Sứ quân Ngô Xương ở Bình Kiều

Ngô Xương Xí được báo tin có quân Đinh Bộ Lĩnh đã tràn vào Khoái Châu, sức mạnh như vỡ bờ ! Ông cũng đã chờ đợi ngày này, để quyết đấu một phen: nếu thắng được Đinh Bộ Lĩnh, thì việc dựng lại nghiệp cũ nhà Ngô mới có hy vọng…
Đinh Bộ Lĩnh cho thám báo quân chuyển "Tối hậu thư" cho Thiên Sách Vương kêu gọi đầu hàng, để tránh cảnh chết chóc cho quân sĩ. Ông còn hứa sẽ dành cho con cháu nhà Ngô đặc quyền sau này để thờ phụng tổ tiên…

Thiên Sách Vương quyết chống cự, một phen liều sống chết với quân Đinh Bộ Lĩnh. Trận chiến ác liệt chống chọi không nổi, tan rã, bỏ chạy về thành. Quân của Đinh Bộ Lĩnh tràn vào như vũ bão : Thiên Sách Vương đại bại. Chấm dứt triều đại nhà Ngô một thời huy hoàng !

Đại quân của Đinh Bộ Lĩnh thừa thắng kéo đến Phong Châu, đánh bại Sứ quân của Kiều Tam Chế (tức Kiều Công Hãn). Tiến chiếm Tam Đài (phủ Vĩnh Tường) của Sứ quân Nguyễn Thái Bình (Nguyễn Khoan).

Chỉ trong vòng chưa đầy một năm, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh dẹp được tất cả các Sứ quân. Quân của ông kéo đến đâu, đánh thắng tới đó; nên dân chúng, quân sĩ, tôn ông là "Vạn - Thắng - Vương".
Trả lời với trích dẫn


  #6  
Cũ 30-07-2012, 10:28 AM
phuthi phuthi đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 154
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Lê Đại Hành Hoàng đế - Phá giặc Tống - Bình Chiêm Thành

CHƯƠNG I

THỜI NIÊN THIẾU - LÊ HOÀN THEO GIÚP ĐINH BỘ LĨNH
Lê Hoàn sinh năm 940 - người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam bây giờ. Tư chất thông minh, tháo vát, đặc biệt người cao lớn, tuấn tú.

Ông chuyên tâm theo học võ nghệ, kiếm cung rất sớm. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng Lê Hoàn đã có sự hiểu biết khá sâu sắc, rộng rãi của người dày dạn kinh nghiệm.

Lê Hoàn lớn lên trong cảnh đất nước bị chia cắt làm nhiều sứ quân, còn triều Hậu Ngô Vương thì suy yếu, dân tình cơ cực, đói khổ trăm bề.

Thấy ông đam mê việc kiếm cung, binh thư - có lần cha ông đã tỏ ra không mấy vui lòng :

- Con bỏ quên văn sách, mà mải mê binh pháp, võ thuật - như vậy làm sao có thể trở nên người tướng song toàn?

Lê Hoàn thưa :

- Thưa cha, văn sách con cũng đã học qua, nhưng thời nhiễu nhương, loạn lạc này nếu không giỏi võ bị, cầm quân, sao có thể dẹp yên giặc loạn?

Vào khoảng tuổi 18, Lê Hoàn đã chọn người hiền tài để phò giúp - ông vào Hoa Lư, xin ra mắt Đinh Bộ Lĩnh.

Buổi gặp gỡ đầu tiên, Lê Hoàn đã làm cho Đinh Bộ Lĩnh tin tưởng giao cho trọng trách luyện tập quân sĩ. Bộ Lĩnh đang chiêu mộ người tài, nên rất hậu đãi Lê Hoàn …


“Võ tướng Lê Hoàn dưới cờ Đinh Bộ Lĩnh”


Lần xuất quân đi đánh Sứ quân Phạm Phòng Át, Lê Hoàn đã lập công lớn. Rồi đến lần phá Đỗ Động của Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, lần nữa Lê Hoàn đã chứng tỏ được tài thao lược điều binh của mình; khiến Đinh Bộ Lĩnh phải khen ngợi:

- Ta có làm được việc lớn hay không là nhờ vào sự trợ giúp của nhà ngươi! Quả thật trời đã giúp ta …

Tiếp theo sau hai lần đánh dẹp được hai sứ quân đầu tiên - quân của Bộ Lĩnh đánh trận nào đều thắng trận ấy. Lê Hoàn luôn có mặt bên cạnh chủ tướng để điều binh - khiển tướng như một vị Phó Nguyên Soái.

Dẹp yên được loạn 12 Sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh - Vạn Thắng Vương, lên ngôi Hoàng Đế, tức là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (năm Mậu Thìn - 965). Tiên Hoàng liền phong cho Lê Hoàn làm Thập Đạo Tướng Quân - lúc ấy Lê Hoàn được 25 tuổi.


CHƯƠNG II

LÊ HOÀN LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ
Năm Kỹ Mão (979) vua Tiên Hoàng và Nam Việt Vương bị tên Đỗ Thích giết chết. Vệ Vương mới 6 tuổi lên làm Vua, quyền chính ở cả vào Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn. Dương Thái Hậu lại có nhiều cảm tình với vị tướng trẻ tuấn tú tài cao này.

Các quan đại thần bấy giờ là Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá mới cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả !

Lúc bấy giờ nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng đã mất, vua lên thay còn nhỏ dại, muốn thừa dịp sang lấy nước ta; nên tụ tập đại binh ở gần biên giới chờ sẵn.

Bên ta được tin quân Tàu sắp sang, Lê Hoàn cử Phạm Cự Lượng làm Đại Tướng đem binh đi chống giữ. Trước khi khởi hành, Phạm Cự Lượng họp cả tướng sĩ lại ở trong điện - đứng trước ba quân ông nói :

- Bây giờ quân giặc Tống sắp vào xâm lăng đất nước ta, mà Vua thì còn bé quá, lấy ai biết mà thưởng phạt cho chúng ta? Dẫu chúng ta có hết sức lập được chút công nào, thì rồi ai biết cho? Chi bằng nay ta tôn Thập Đạo Tướng quân lên làm Vua rồi khởi binh đi đánh giữ thì hơn …

Quân sĩ nghe Tướng Phạm Cự Lượng nói thế, đồng thanh hô to : “Vạn tuế, vạn tuế …”. Thái Hậu thấy tướng sĩ thuận cả, mới sai lấy áo long cổn mặc vào cho Lê Hoàn.


“Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế tức Đại Hành Hoàng Đế”


Lê Hoàn lên làm vua, giáng Đinh Tuệ xuống làm Vệ Vương - Sử gọi là Phế Đế. Lê Hoàn lên ngôi, tức Lê Đại Hành Hoàng Đế, niên hiệu là Thiên Phúc...

Vua sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh Tuệ xin phong, cốt ý để nhà Tống hoãn binh lại; Ngài có thời gian chuẩn bị lực lượng tiếp chiến sau này.

Vua nhà Tống không nghe, sai sứ sang trách Đại Hành rằng sao được xưng Đế. Lại nói rằng: "Nhà Đinh truyền tập đã ba đời rồi, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống Soái, Lê Hoàn làm Phó. Nếu Đinh Tụê còn nhỏ tuổi quá không làm được, thì Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc Triều, rồi sẽ phong quan tước cho Lê Hoàn".

Vua Đại Hành biết mưu nhà Tống tìm cớ lường gạt, và thuận dịp xâm lược sau này, nên cương quyết chối từ. Ngài nhanh chóng cho chuẩn bị việc tham chiến, để có thể đánh bại đại quân của nhà Tống đang chờ sẵn ngoài biên giới...


CHƯƠNG III

ĐẠI HÀNH HOÀNG ĐẾ PHÁ QUÂN TỐNG
Nhà Tống thấy vua Đại Hành không chịu nghe lời, liền sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm Tân Tỵ (981) bọn Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng Sơn. Bọn Lưu Trừng đem thủy quân sang mặt Bạch Đằng giang...

Vua Đại Hành đem binh thuyền ra chống giữ ở Bạch Đằng. Quân nhà Tống thế mạnh tiến quân như vũ bảo; quan quân ta đánh không lại, sau nhiều phen quyết ngăn giữ không được, nên phải lùi để tránh sự tổn thất.

Bấy giờ lục quân của Hầu Nhân Bảo đã tiến sang đến Chi Lăng (thuộc Ôn Châu - Lạng Sơn). Vua Đại Hành biết không thể dùng sức để kháng cự, Ngài đã vận dụng mưu kế.

Vua Đại Hành liền sai hai viên tướng đem theo một ngàn quân sĩ, ra khiêu chiến với Hầu Nhân Bảo. Trong lúc đánh, một người cầm cự yếu ớt, một người sẽ trá hàng. Vị tướng trá hàng dẫn dụ Hầu Nhân Bảo đuổi theo, ra đến chỗ hiểm yếu, sình lầy...


"Tướng nhà Tống Hầu Nhân Bảo bị chém chết"


Quân Đại Hành, mai phục chờ sẵn hai bên vách núi hiểm trở, không có lối thoát. Khi Hầu Nhân Bảo say sưa chiến thắng, khinh thường một mình một ngựa đuổi theo tàn quân ta thua chạy; Vua Đại Hành đổ quân ra chận đánh, bắt chém được Hầu Nhân Bảo … quân ta tiếp tục đánh đuổi theo quân Tống, chém giết được hơn một nửa; bắt sống được hai người bộ tướng của Hầu Nhân Bảo !

Bọn Lưu Trừng thấy lục quân đã tan vỡ, vội vàng đem thủy binh rút về.

Quân ta đại phá được quân Tống, chiến thắng rất oanh liệt, vẻ vang - nhờ tài mưu trí của Đại Hành và tinh thần quyết chiến của quan quân trước nạn xâm lược và nô lệ của người Tàu.

Vua Đại Hành nhận biết thế lực của nước nhỏ không thể kháng cự lâu dài với quân Tống nên tuy thắng trận, Ngài vẫn dùng sự mềm mỏng ngoại giao để hòa hoãn việc chiến tranh : Đại Hành sai sứ đem hai viên hộ tướng bắt sống được trao trả lại cho nhà Tống và xin theo lệ triều cống như xưa …

Lúc ấy ở phía Bắc nước Tàu có quân Khiết Đan (Hung Nô) đang đánh phá, cho nên vua nhà Tống cũng thuận thôi việc binh đao với nước ta, và phong cho vua Đại Hành làm Tiết Độ Sứ.

Năm Quý Tỵ (993) nhà Tống sách phong cho vua Đại Hành làm Giao Chỉ Quận Vương. Đến năm Đinh Dậu (997) lại gia phong là Nam Bình Vương.

Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại sang nước ta, có khi vua Đại Hành phụng chiếu của vua nhà Tống mà không lạy. Ngài nói dối rằng đi đánh giặc bị ngã ngựa, chân đau, nên không lạy được. Nhà Tống biết là nói dối, nhưng đánh làm ngơ …


CHƯƠNG IV

ĐÁNH DẸP QUÂN CHIÊM THÀNH
Năm 980 - lúc Lê Đại Hành lên ngôi Hoàng Đế, Ngài vừa lo chấn chỉnh mọi việc trong nước ; từ chính trị, nông nghiệp đến võ bị - vừa lo việc ngoại giao, trong đó có nước lân bang là Chiêm Thành.

Ngài cử sứ giả sang Chiêm, để giữ tình giao hảo như xưa, nhưng bị vua Chiêm đã không thuận phục, mà còn bắt giam Sứ giả của ta lại không cho về nước.

Nhân phía Bắc có giặc Tống đang lăm le chờ tiến binh sang thôn tính nước ta; nhân lúc vua Đinh Tuệ còn quá nhỏ và Lê Đại Hành vừa mới được tướng sĩ suy tôn lên ngôi; vua Chiêm không chịu thần phục, thường đem quân qua biên giới quấy nhiễu, đánh phá …

Đại phá được quân Tống, giao hảo xong với Tàu; vua Đại Hành có đủ thời gian, lực lượng để bình định quân Chiêm. Ngài còn nhớ đến vị Sứ thần bị bắt giam, liền cử quân sang chinh phạt Chiêm Thành để hỏi tội, và báo thù.

Nhà vua thân chinh cầm quân dẫn đầu đại quân ồ ạt tiến về Nam. Quân Chiêm đã có nhiều thời gian chuẩn bị, dưỡng quân, nên đã tổ chức kháng cự rất mãnh liệt. Có lẽ vua Chiêm cũng đã tiên liệu việc nước Nam sẽ sang chinh phạt để trả thù chuyện bắt giam sứ thần trước đây, nên dồn lực lượng giữ ngay biên giới.

Quân ta tấn công nhiều lần, mà chưa tiến sâu vào đất Chiêm; gặp phải sức kháng cự rất mạnh của Chiêm Thành. Có bao nhiêu tướng sĩ, sức lực, vua Chiêm dồn cả lại ngay trận tiền, hòng bảo vệ thành trì, kinh đô.

- Đại Hành dùng mưu, bàn với các tướng :

- Chiêm Thành đã khiêu khích ta, ắt là đã có chuẩn bị sẵn quân lực mạnh; nay ta nên dùng kế để phá thủy lưới địch, chiếm lấy kinh đô … Ta lệnh cho một số ít quân ở lại với vị tướng cận vệ, đánh cầm chân giặc. Ta sẽ dẫn hai phần sang ngã biên giới Tây Nam, đánh thẳng vào kinh thành đang bỏ trống … Vào được kinh đô, dẹp được giặc phòng vệ rồi, ta sẽ tiến binh vây đánh mặc sau; khi ấy các ngươi hãy đón giặc mà giết …


“Lê Đại Hành tiến quân vào chiếm kinh đô Chiêm Thành”


Theo đúng hoạch định của Đại Hành, quân ta tiến vào Kinh đô vua Chiêm mà chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt. Quân ta chiếm được kinh đô, để lại một số giữ thành; quay về tiến công quân Chiêm từ phía sau …

Quân Chiêm đại bại, người chết rất nhiều. Quân ta bắt sống được nhiều tướng Chiêm trong trận này, thu được nhiều của cải dự phòng của vua Chiêm. Từ ấy, nước Chiêm mới chịu xin hàng phục, triều cống theo xưa. Vua Đại Hành tha cho quan tướng Chiêm trở về; vua Chiêm được ngôi cũ …

Ngoài hai giặc lớn ở hai miền Nam - Bắc biên giới đã được dẹp yên; trong nước bấy giờ thường hay có các động Mường và những người ở các Châu quận xa làm phản, vua Đại Hành cũng đã tự mình cầm quân đi đánh dẹp. Ngài đã bình được 49 động Hà Man (thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) và dẹp yên những loạn quân phản nghịch ở các nơi.

Với tài thao lược, mưu trí như thần, vua Đại Hành đã đem lại cho nước Nam một sự cường thịnh, tiếng tăm lừng lẫy - nhà Tống phải kiêng nể, quân Chiêm phải ngoan ngoãn hàng phục ….
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 01:27 PM

Xây dựng bởi SangNhuong.com
© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.

Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay | Chợ rao vặt miễn phí SangNhuong.com | Chợ thông tin bất động sản lớn nhất Việt Nam