|
|||
![]() |
|
||
![]() |
|
Công cụ bài viết | Kiểu hiển thị |
#1
|
|||
|
|||
![]() Bài số 1 : Làm quen với giao diện Photoshop. Hiện nay Photoshop đang tới bản CS3, nhưng giao diện thì phần lớn 99% là y chang nhau, chỉ có thay đổi 1% nhỏ xíu : . . Thanh Menu SRO's Blog image Thanh menu bao gồm 9 menu phụ: File, Edit, Image, Layer, Select, Filter, View, Window và Help. Bỏ ra vài phút để tự khám phá thanh menu, bạn sẽ nhận ra rằng có một số menu phụ theo sau bởi 2 dấu ngoặc đơn (...). Nó có nghĩa rằng đằng sau menu này được theo sau bởi một hộp thoại mà bạn có thể thêm vào những định dạng. Một số khác được theo sau bởi những mũi tên nhỏ, nó chỉ ra rằng một menu phụ với những lệnh liên quan. Khi bạn khám phá từng menu, hãy khám phá cả những menu phụ nữa. Bạn cũng có thể để ý thấy rằng rất nhiều lệnh được theo sau bởi những lệnh bàn phím. Sau này bạn sẽ nhận ra rằng những lệnh tắt này sẽ giúp bạn tiết kiệm rất nhiều thời gian. Khi bạn đọc xong cả 8 chương này bạn sẽ học được những lệnh tắt hữu dụng nhất. Thêm vào thanh menu, Photoshop thường có những dòng chữ chạy theo con trỏ trên những công cụ thông dụng nhất mỗi khi bạn đưa con trỏ trượt qua nó. Điều này để làm cho bạn rõ ràng hơn khi lựa chọn công cụ làm việc. Một trong những menu ngữ cảnh tiện dụng nhất mà có thể truy cập bằng cách nháy chuột phải/ Ctrl + click vào thành tiêu đề của một tài liệu để có đường tắt đến lệnh nhân đôi (duplicate), hình ảnh, hộp thoại kích cỡ canvas, thông tin về tệp tin và định dạng trang. Nếu bạn đã biết cách mở một file ảnh, thì cứ tự nhiên thử đi. Nếu không thì chúng ta tiếp tục bài học sau ![]() 2. Thanh Trạng Thái ![]() Bây giờ bạn hãy nhìn vào thanh trạng thái ở tận cùng của màn hình hiển thị. Thanh trạng thái ít khi được ngừơi dùng lưu tâm tới, nhưng nó có thể là một công cụ quý giá. Bạn phải mở một tài liệu trước khi thanh trạng thái thể hiện thông tin, vậy mở đi thôi! Lệnh tắt để mở là Ctrl+o ![]() ở bên tận cùng trái của thanh trạng thái bạn sẽ thấy độ phóng đại của tại liệu hiện hành. Bạn có thể click chuột vào đó và đánh vào đó một số bất kỳ để thay đổi độ phóng đại của tài liệu. ![]() Để trả lại tại liệu về 100% độ phóng đại, nháy kép vào công cụ Zoom Tool trong hộp công cụ (Tool Box). Lệnh tắt của công cụ này là Ctrl+Alt+0 ![]() Ở bên phải của ô độ phóng đại, bạn sẽ thấy một ô thể hiện kích cỡ của tại liệu. Số bên trái thể hiện độ lớn khi chưa nén của file ảnh nếu tất cả các layer bị flatten. Số bên phải thể hiện độ lớn chưa nén của tại liệu bao gồm tất cả các layers và channels. Bạn nên lưu tâm rằng cả hai chỉ số này thường thì lớn hơn độ lớn thực sự của tài liệu khi được save lại. ![]() Kế bên độ lớn của tại liệu có một mũi tên nhỏ dẫn tới một menu. Khi làm việc với Photoshop bạn sẽ luôn thấy một mũi tên tương tự như thế này, và nhớ rằng đằng sau nó có dấu một menu phụ. Trong trường hợp này menu phu cho phép bạn thay đổi những gì thể hiện ở thanh trạng thái. Thêm vào độ lớn của tại liệu, bạn có thể lựa chọn Scratch Sizes, Efficiency, Timing, hoặc Current Tool Bên cạnh thanh trạng thái, bạn cũng có thể thấy những thông tin quan trọng về công cụ bạn đang dùng. Nếu bạn vẫn đang lựa chon Zoom Tool, thì thanh trạng thái của bạn sẽ hiện thị "Zoom in". Nếu bạn ở ngoài vùng soạn thảo của tại liệu hãy chuyển con trỏ vào vùng soạn thảo và bạn sẽ thấy thanh trạng thái hiện ra hướng dẫn cách sử dụng công cụ đó. Bây giờ hãy nhấn phím Alt xuống và trên thanh trạng thái sẽ hiện ra "Zoom Out" và con trỏ sẽ biến thành dấu trừ. Hãy thử với lệnh Ctrl cùng với Zoom Tool và quan sát câu hướng dẫn trên thanh công cụ. Hãy thử phối hợp những lệnh như là Ctrl - Shift, hoặc Ctrl-Alt và quan sát hướng dẫn trên thanh trạng thái. Dưới đây là một số câu lệnh tắt của Zoom Tool Ctrl-Alt-0/ = phóng to 100% Alt/ = Click để thu nhỏ Ctrl/ = Tạm thời chuyển sang Move Tool Nháy kép Hand Tool = Phóng to cho vừa với màn hình Ctrl-0/ = Phóng to để vừa với màn hình Ctrl-+/ = Zoom in Ctrl--/ = zoom out 3. Tool Box - Hộp công cụ Khi bạn nhìn vào hộp công cụ, bạn sẽ thấy một vài nút có những mũi tên nhỏ ở bên góc phải. Nó có nghĩa rằng còn có những công cụ khác được dấu bên trong. Để lấy công cụ này click chuột giữ và kéo một menu sẽ hiện ra. ![]() Khi bạn rê chuột qua những nút khác bạn sẽ thấy một dòng chữ hiện lên chỉ ra tên của công cụ đó và lệnh gõ tắt của nó. Tất cả những Marquee Tool có lệnh gõ tắt là M. Một cách đơn giản để hoán đổi những công cụ là dùng lệnh tắt cùng với phím Shift. Với công cụ Marquee, lệnh Shift-M sẽ hoán đổi từ Rectangular thành Elliptical Marquee Tool. Single marquee row marquee tool rất ít khi được dùng cho nên phải chọn bằng hộp thoại tool box. Một câu lệnh tắt khác để hoán đổi những công cụ ẩn là Alt/ Click vào nút trong Tool Box Ở dưới hộp Tool Box là hộp Swap Color. Đây là hộp mà nền trước và nền sau được thể hiên. Cái mũi tên nhỏ ở bên góc phải cho phép bạn hoán đổi từ nền trước thành nền sau và ngược lại. Biểu tượng nhỏ màu trắng và đen ở bên trái của Swap Color cho phép bạn quay lại chế độ mạc định ban đầu của Photoshop là đen là nền trước và trằng là nền sau. Để thay đổi màu nền, đơn giản chỉ cần click vào một trong hai nền trước và nền sau và lựa chọn một màu mới trong menu chọn màu. Hãy thử chọn màu mới và quay lại mạc định ban đầu của Photoshop. ![]() Biểu tượng này cho phép bạn thay đổi 2 lệnh Quick Mask và Selection Mode ![]() Biểu tượng này cho phép bạn thay đổi giao diện của môi trường làm việc. Hãy thử click chuột vào từng biểu tượng để biết tính năng của nó là gì. Lệnh tắt cho biểu tượng này là F. Bằng cách lập lại nhấn phím F sẽ thay đổi sang 3 trạng thái ![]() Sau đây là một số lệnh tắt để thay đổi giao diện của môi trường làm việc. Hãy thử thực hành luôn khi bạn đọc tới nó. Shift-F thay đổi sang Full Screen modes, dấu hoặc hiện thị Toolbox, thanh trạng thái và các Palettes bằng phím Tab. Chỉ dấu mỗi Palettes và để hiện thị Toolbox sử dụng tổ hợp phím Shift-Tab Phần cuối cùng của Toolbox là di chuyển tài liệu sang ImageReady. Chúng ta không đề cập đến ImageReady trong phần Photoshop này, bạn có thể tìm thêm tài liệu ở ngoài. Trước khi chuyển sang Palettes, tôi tóm tắt lại những lệnh tắt chúng ta đã học ở trên. D = Định dạng lại nền trước thành đen và nền sau thành trắng. X = Hoán đổi vị trí giữa nền trước và nền sau F = Hoán đổi Screen Modes Shift-F = Bật và tắt Menu bar trong Full Screen Mode Tab = Bật và tắt toolbox, status bar, và palettes Shift-Tab = Bật và tắt chỉ duy nhất Palettes. 4. Palette Để hiểu tốt hơn phần này bạn nên mởi một file ảnh bất kỳ cho tiện theo dõi ![]() Navigation Palette trong version 6.0 bao gồm Navigator, info và Option. Trong Version 7.0 chỉ có Navigator và Info. khi bạn khởi động Photoshop, tất cả các Palette được hiện ra dọc theo bên phải của màn hình trong nhóm Palettes. Nhóm thứ nhất bao gồm Navigator, info và option. Tiếp theo nó là Color Swatches, Brush Palettes. Ở dưới nữa là History và Action Palettes. Cuối cùng, là Layers, Channels và Paths Palettes. Palettes có thể di chuyển được trong môi trường làm việc bằng cách nháy vào thanh tiêu đề (màu xanh) và kéo nó. Mỗi một nhóm Palette đều có một chức năng thu nhỏ và đóng lại ở trong thanh tiêu đề. Bạn hãy thử thu nhỏ các Palettes lại đi! nếu bạn nháy vào Palettes lần nữa sẽ lại mở nó ra. Riêng Color Palette thì không thể thu nhỏ hoàn toàn, bạn thử đi! [img] http://www.bantayden.com/PTS/psc5-020.gif[/img] ![]() Đối với những Palette chỉ đóng được một phần, bạn có thể đóng nó hoàn toàn bằng cách giữ phím Alt và nhấn vào nút thu nhỏ. Bạn cũng có thể thu nhỏ cả nhóm bằng cách nháy kép vào bất kỳ một Palettes nào. Để hiển thị lại Palette đơn giản là click một lần vào thanh Palette nếu nó ở đằng sau của nhóm hoặc nháy đúp vào nếu nó ở đằng trước của nhóm. Palette cũng có thể thay đổi kích thước bằng cách rê con trỏ ở cạnh của nó khi con trỏ biến thành mũi tên hai đầu và kéo, hoặc bằng cách kéo ở góc của nó. Chỉ có Color, Options và Info là không thể thay đổi kích thước. Khi bạn nháy vào nút đóng ở một nhóm Palette nó sẽ đóng tất cả những Palette trong nhóm đó. Để hiện thị lại Palette bị ẩn, bạn có thể chọn hoặc trong Window Menu hoặc hiện thị nó bằng lệnh tắt. Lệnh tắt như sau F5 = Ẩn/ hiện Brushes Palette F6 = Ẩn/ hiện Color Palette F7 = Ẩn/ hiện Layers Palette F8 = Ẩn/ hiện Info Palette F9 = Ẩn/ hiện Actions Palette Tab = Ẩn/ hiện Toolbar và tất cả Palettes Shift-Tab = Ẩn/ hiện tất cả Palettes Chương III: Làm việc với tài liệu 1. Navigator Palette và Hand Tool Mở một file ảnh bất kỳ. ![]() Ở chính giưa Navigator Palette bạn thấy một hình nhỏ thể hiện file ảnh của bạn vừa mở ra. Nếu cả tấm hình của bạn nằm trong phần nhìn thấy được thì nó sẽ có một viên bao quanh như hình. Bạn có thể thay đổi màu viền bằng cách chọn Pallete option ![]() Bên dưới tấm hình đó, bạn có thêm một công cụ nữa để Zoom in và out. Ô text cho phép bạn gõ vào bất cứ gái trị phóng to hoặc thu nhỏ nào, và thanh trượt cho phép bạn điều chỉnh độ phóng đại bằng cách kéo nó sang trái hoặc phải và hai cái nút nhỏ ở cả hai đầu của thay trượt cho phép bạn zoom in và out bằng cách tăng độ lớn hoặc thu nhỏ với mặc định sẵn có. Một lưu ý nhỏ cho bạn là với tiện ích của navigator palette khi bạn phóng to một bức ảnh đến cực đại là 1600%, bạn sẽ thấy viền bao quanh nó sẽ di chuyển vào trong. Bằng cách click vào bất cứ chỗ nào trên Navigator đó đều đưa bạn đến điểm bạn click chuột. ![]() Một cách nữa để di chuyển tài liệu là dùng công cụ Hand Tool. Khi công cụ Hand Tool được chọn bạn chỉ việc click và kéo tài liệu đó tới chỗ cần thao tác. Phím tắt cho Hand Tool là Spacebar (phím cách). Một lưu ý nữa khi dùng Hand Tool là khi bạn muốn di chuyển tài liệu trong chế độ phóng lớn. Bất kể bạn đang dùng công cụ gì, nhưng khi bạn giữ phím Spacebar xuống nó sẽ tự động chuyển sang Hand Tool và cho phép bạn kéo thoải mái. Khi bạn muốn có độ chính xác cao với file ảnh bạn đang xử lý, bạn nên đặt chế độ phóng đại là 100%. Tại những độ lơn khác kết quả có thể không chính xác như mong đợi. Nhớ rằng mức độ phóng đại hiện thời luôn được hiển thị trong thanh trạng thái, Navigation Palette hoặc thanh tiêu đề của tài liệu. 2. New view và lệnh nhân đôi (duplicate) Chọn View > New View (window > Documents > New window Photoshop 7.0) và một cửa sổ khác chứa cùng một văn bản sẽ xuất hiện. Đây không phải là một bản copy (chú ý tên của file xuất hiện trong thanh tiêu đề hiện ra chính xác với văn bản hiện thời). Nó chỉ đơn thuần là một góc nhìn thứ 2 của cùng một tấm hình. Bất cứ những thay đổi nào bạn thao tác ở cửa sổ này sẽ có kết quả tương tự như ở cửa sổ kia. Điều này cho phép bạn thiết lập 2 độ phóng đại khác nhau ở cùng một tấm hình. Điều này hết sức cần thiết khi bạn muốn zoom in một phần của tấm hình để xử lý từng chi tiết và cùng một lúc thấy kết quả của việc bạn đang xử lý ở kích thước thực tế. Lệnh nhân đôi được đặt ở Image menu (Image > duplicate). Nhưng tôi thấy thuận tiện nhất là nháy chuột phải vào thanh tiêu đề. Chọn câu lệnh Duplicate và nó sẽ hiện ra một cửa sổ để bạn đặt tên cho file mới. ![]() Lệnh nhân đôi rất thuận tiên khi bạn muốn giữ phiên bản gốc, hoặc bạn muốn tiếp tục xử lý, nhưng bạn nghĩ mình phải quay lại một trạng thái cụ thể sau này. Nhân đôi, tiếp tục xử lý, và nếu có gì sai sót thì chỉ việc xoá file nhân đôi đi và quay lại với file gốc. Thực ra phần History Palette là công cụ tốt nhất để thao tác khi mình muốn undo, nhưng chúng ta bàn đến nó sau. Cũng bằng cách nháy chuột phải vào thanh tiêu đề bạn có thể thay đổi kích thước của ảnh (hoặc vào Image > Image Size). Lệnh này cho phép bạn thây đổi kích thước của file ảnh hoặc độ phân giải của nó. 3 Kích thước ảnh và độ phân giải Mục này chỉ đề cập đến mối tương quan giữa kích thước của tấm hình và độ phân giải của nó. Theo tôi thì cứ kích thước càng lớn, có độ phân giải càng cào và file càng nặng để tải. Cho nên cứ giữ nó ở mức bình thường là tốt nhất 4 Hộp thoại kích thước ảnh Hình dưới đây cho bạn thấy kích thước của ảnh thể hiện dưới đơn vị Pixel. Mũi tên nhỏ cho phép bạn thay đổi từ Pixel thành phần trăm. ![]() Phần hai là kích thước khi in ra của bức ảnh. Chế độ mặc định ở đây là inches, nhưng bạn cũng có thể đổi thành Cm, points, picas hoặc phần trăm. Chú ý với Photo 6.0 trở lên Version 6.0+ phần này được gọi là "Document Size" thay vì "Print Size". Bây giờ bạn hãy chú ý đến cái biểu tượng link ở bên phải cả hai chiều rộng và cao của bức ảnh. Điều này có nghĩa rằng chiều cao và chiều rộng được liên kết với nhau, cho nên khi bạn thay đổi giá trị ở một ô, ô kia sẽ thay đổi theo. Để gỡ sự liên kết giữa hai giá trị, bạn chỉ cần bỏ dấu kiểm ở ô "Constrain Proportion" nhưng bạn sẽ ít khi phải làm vậy vì nó sẽ làm bức ảnh của bạn không cân đối. Bạn chỉ nên thay đổi giá trị ở hộp kiểm Resample Image nếu bạn là một tay cự phách trong photoshop. Còn tôi thì rất ít khi dùng đến nó, cứ để theo mặc định là okie rồi! P/s : vì lí do bài viết quá dài...nên mình phải ngắt quãng ra thành nhiều phần....Và cũng ko thể post liền 1 lúc được....Mong mọi người thông cảm cho 5.Canvas Size - Kích thước Canvas Một lệnh kế tiếp khi nháy chuột phải vào thanh tiêu đề là Canvas Size. Lệnh này cũng được tìm thấy ở Image > Canvas Size Kích thước Canvas cho phép bạn thay đổi toàn thể kích thước của tài liệu canvas mà không cần lựa chọn nội dung của tài liệu. Khi bạn tăng kích thước của tài liệu, vùng canvas sẽ được cộng thêm vào màu nền hiện tại hoặc nó sẽ là trong suốt nếu bạn không để chế độ nền. Thường thì bạn chỉ dùng Canvas Size để tăng kích thước của canvas, nhưng nó có thể được dùng để giảm hoạc cắt Canvas. Mở một file ảnh bất kỳ và chọn lệnh Canvas Size bạn sẽ thấy một hộp thoại như thế này ![]() Như bạn thấy trong hình kích thước hiện tại của tấm hình được thể hiện trên cùng. Những ô giá tri cho phép bạn thiết lập giá trị mới theo chiều rộng và cao tương úng với các đơn vị phần trăm, pixel, inche, cm, points hoặc picas. Những mũi tên nhỏ cho phép bạn xác định Canvas sẽ được định dạng như thế nào. Theo mặc định của Photoshop, ô vuông ở giữa được chọn nó gia tăng một giá trị số lượng Canvas băng nhau cho tất cả các cạnh của tấm hình (giả sử rằng bạn muốn tăng canvas tấm hình của bạn). Khi bạn lựa chọn một trong bất cú những ô vuông khác canvas sẽ được thay đổi ở hướng đối diện. Ví dụ, bạn chọn ô vuông dưới cùng ở giữa, nó sẽ gia tăng kích thước ở trên đỉnh Canvas của bạn. Bạn hãy thực hành bằng cách điền những giá trị mới vào ô chiều rộng và cao để tăng kích thước Canvas, để theo mặc định là ô vuông ở giữa được chọn. Giả sử rằng màu nền của bạn là màu trắng, bạn sẽ có một khoảng trắng thêm vào tất cả các cạnh của Canvas. Chọn Edit > Undo (hoặc Ctrl-Z) để Undo thay đổi và thay đổi với màu nền mới. Thử lại với lệnh Canvas nhưng lần này thay đổi sự lửa chọn ở các ô vuông theo ý bạn và quan sát nó tác động đến tài liệu như thế nào. Chú ý: Nếu bạn điền một giá trị bất kỳ vào hộp thoài kích thước, và bạn muốn thay đổi ý định để giữ lại giá trị bạn đầu, hãy giữ phím Alt và nút Cancel sẽ được đổi thành nút Reset. Bằng cách nhấn Reset sẽ quay lại giá bạn đầu của nó. Cách này có thể áp dụng ở tất cả các hộp thoại của PTS (Photoshop), và bạn sẽ thấy nó rất tiện dụng, và bạn nên nhớ nó như là một lệnh tắt. Lệnh kích thước Canvas hữu dụng khi bạn muốn thêm một khoảng bằng nhau vào Canvas của bạn, hoặc khi bạn biết chính xác bạn kích thước bạn muốn điều chỉnh, nhưng có nhiều cách làm trực giác và linh hoạt hơn để tăng hoặc giảm kích thước canvas bằng cách sử dụng Crop Tool 6 Crop Tool - Công cụ cắt Lệnh tắt cho Crop Tool là C. Công cụ Crop Tool trong PTS có nhiều tác dụng hơn chỉ là cắt ảnh. Như đã nói ở phần trên, Crop Tool có thể được dùng để tăng kích thước Canvas. Trong PTS 6 nó có thể được dùng để nhanh chóng thay đổi chiều hướng của ảnh. Hãy thực tập với công cụ Crop Tool. Bạn hãy mở một file ảnh bất kỳ và chọn một vùng trên tấm hình để cắt. Chỉ cần giữ chuột và kéo nó, khi ban buông chuột ra sẽ có một vùng lựa chọn thể hiện dưới dạng các chấm. Bạn không cần phải tạo ra một sự lựa chọn hoàn hảo với lần cắt đầu tiên, vì bạn luôn luôn có thể chỉnh sửa lại vùng lựa chọn trước khi quyết định cắt. Tất nhiên nếu bạn làm chính xác lần đầu tiên thì bạn sẽ tiết kiệm được thời gian, tuy nhiên hình ảnh mặc định của công cụ Crop làm cho nó có vẻ khó xác định chính xác đâu là phần bắt đầu và kết thúc của vùng lựa chọn ![]() Bây giờ bạn hãy chọn bất cự loại con trỏ nào mà bạn muốn và kéo một vùng lựa chọn trên file ảnh của bạn. Bạn có để ý thấy những ô vuông nhỏ ở các góc và viền của vùng lựa chọn không? Tác dụng của nó là để kéo và chỉnh sửa vùng lựa chọn bằng tay. Một điều nên chú ý là khi bạn kéo ở góc của vùng lựa chọn, nó sẽ gia tăng kích thước ở cả chiều rộng và cao của tấm hình. Nếu bạn giữ phím Shift thì bạn luôn có một đường thẳng. Phím Shift là một phím rất quan trọng khi bạn muốn vẽ một đường thẳng,bạn sẽ dùng đến nó rất nhiều khi dùng các công cụ như line tool, gradient ... Khi bạn thực hành và kéo vùng lựa chọn có thể bạn sẽ thấy một khó khắn như sau. Khi bạn muốn mở rộng vùng lựa chọn ra gần với biên của cửa sổ, nhưng nó cứ "vèo" ra đến tận biên, mà mình thì muốn nó phải cách biên một chút. Hãy nhần phím Ctrl xuống và bạn sẽ thao tác rất dễ dàng. Chú ý với Version 6.0+ Trong Photoshop 6+, vùng lựa chọn được thể hiện bởi một màu xám. Điều này làm cho nó dễ dàng hơn khi quan sát vùng lựa chọn tác động đến tài liệu như thế nào. Bạn có thể thay đổi vùng này bằng cách thay đổi độ nét từ thanh lựa chọn (option bar) sau khi bạn đã chọn lựa vùng để cắt. Bạn cũng có thể ẩn bóng đi bằng cách bỏ dấu kiểm khỏi ô "Shield Cropped area" ![]() Khi bạn rê con trỏ vào trong vùng lựa chọn, nó sẽ đổi thành mũi tên màu đen. Điều này có nghĩa rằng bạn có thể di chuyển vùng lựa chọn. Giư phím Shift để di chuyển chính xác hơn. Khi bạn rê con trỏ đến góc của vùng lựa chọn, bạn sẽ thấy nó biến thành một mũi tên cong. Khi đó bạn có thể xoay vùng lựa chọn để duỗi thẳng một tấm hình cong. Điểm ở giữa của vùng lựa chọn cho phep bạn xác định điểm trung tâm mà ở đó vùng lựa chọn được xoay vòng. Bạn có thể di chuyển điểm trung tâm này bằng cách giữ và kéo nó. Khi bạn muốn huỷ bỏ vùng lựa chọn ấn phím Esc. Hoặc khi bạn muốn thiết lập vùng lựa chọn nhấn phím Enter hoặc đơn giản là nháy đúp vào vùng lựa chọn Chú ý Version 6.0+ dấu tích là thiệt lập vụng lựa chọn còn dấu "X" là huỷ bỏ. Bạn có thể quay lại với trạng thái ban đầu của bức ảnh bằng cách vào File > Revert. Với tuỳ biến của công cụ Crop Tool, có một hộp kiểm để thiết lập định dạng Fixed Target size.Khi hộp kiểm này được chọn, bạn có thể lựa chọn độ phân giải của file ảnh. Với version 6+ bạn sẽ không thấy hộp kiểm nhưng bạn có thể gõ giá trị vào ô Width, Height và Resolution để thay đổi độ phân giải của tấm ảnh thay vì cắt. 8. History Palette - Palette sự kiên Bây giờ bạn đã biết một số lệnh cơ bản để xử lý ảnh, do vậy nó cũng rất cần thiết để biết làm cách gì Undo những thay đổi và sửa lỗi. Bạn có thể dùng Ctrl-Z để Undo, nhưng nó chỉ có tác dụng từng hành động một, hãy thử tượng tượng bạn đã làm đến 17 thao tác và muốn quay lại thao tác thứ 2, 3 thì chẳng lẽ undo đến 15 lần? Đó là lý do tại sao có thêm History Palette ![]() Nhìn vào hình bên cạnh là History Palette. Trên cùng của Palette này là một tấm hình nhỏ và tên của file đó Bất cứ khi nào bạn mởi một file ảnh, PTS sẽ tạo ra một tấm ảnh nhỏ và đặt nó ở vị trí này. Cách nhanh nhất để Undo toàn bộ thao tác là nháy kép vào bức ảnh, bạn cũng có thể tạo ra thêm một bức ảnh nữa bằng cách chọn biệu tượng new snapshot từ Menu của History Palette hoặc nhấn vào nút new Snapshot ![]() Thực hành với History Palette bằng cách tạo ra một số thay đổi như là thay đổi kích thước, cắt ảnh. Tiếp đến bạn hãy tạo ra một Snapshot. Bây giờ nhấn vào snapshot đầu tiên trong danh sách. Bức ảnh sẽ trở lại trạng thái ban đầu. Nhấn vào Snapshot thứ hai bạn sẽ quay lại với phiên bản đang xử lý. Kết hợp với History Brush, Snapshot có thể là một công cụ rất đắc lực. Dưới Snapshot bạn sẽ thấy có những đường kẻ phân biệt, và một danh sách của những thay đổi gần nhất mà bạn tao ra cho bức ảnh. Bạn có thể Undo bất cứ thao tác nào chỉ bằng cách chọn sự thay đổi cuối cùng bạn muốn trở lại, hoặc kéo biểu tượng mũi tên nhỏ xuất hiện bên cạnh mỗi thao tác. Thanh trượt này hữu dụng là vì có khi bạn không chắc bạn phải quay lại bao nhiêu bước bời vì nó cho phép bạn xem trước những thay đổi khi bạn di chuyển nó lên hoặc xuống. Với chế độ mặc định PTS chỉ cho phép 20 thao tác bạn tạo ra cho bức ảnh, còn những thao tác trước đó sẽ bị xoá khỏi list để dành bộ nhớ cho PTS. Nếu máy tính của bạn có dung lượng bộ nhớ cao thì bạn có thể tăng con số này lên qua History Option trong History Palette. Nếu bạn muốn giữ bộ nhớ cho PTS thì bạn nên tạo ra những snapshot tại những điểm quan trọng trong suốt quá trình xử lý, do đó bạn có thể quay lại với trạng thái trước đó ![]() Trước khi kết thúc phần History Palette tôi muốn chỉ ra một vài đỉêm quan trọng mà bạn nên biết về History Palette. History và Snapshot không lưu lại với file ảnh. Đóng hoặc mở một file ảnh sẽ xoa hết những thao tác cũ và snapshot Quay lại với thao tác trước và tiến hành thao tác mới sẽ xoa hết những sự kiện theo sau nó. Xoá một thao tác sẽ xoá hết những sự kiện theo sau nó, trừ phi non-linear option được chọn Ctrl-Alt-Z = di chuyển lên trong History Palette Ctrl-Shift-Z = Di chuyển xuống trong History Palette 9. Lưu lại file ảnh Chắc tôi không phải đề cập nhiều về mục này, vì ai cũng biết cách Save một file như thế nào rồi phải không? chỉ có phần Save for web thì tôi sẽ đề cập kỹ hơn ở một bài viết khác. Hợp nhất bài viết by Dragonmaster...mốt viết bài đầu vô chính luôn đi...giới thiệu ít thôi :-w |
#2
|
|||
|
|||
![]() ọc ọc hay quá, em hiện jo đang là dân mù photoshop, bác post cái này hay quá, > ![]() |
#3
|
|||
|
|||
![]() Kekeke, cám ơn JD ủng hộ
![]() ![]() ![]() |
#4
|
|||
|
|||
![]() SAx ![]() Trong photoshop nói chung có 2 kĩ năng chính: Lồng layer...chèn chữ Tô màu vùng,làm khớp màu Còn các kĩ năng khác chủ yếu là do hứng và tài quan sát,xử lý của các tay sử dụng cứng,ví dụ như làm bức ảnh có nắng xuyên qua....tạo cầu vồng,nói chung mí cái này nếu muốn tìm thì có nhìu 4rum dành cho ai say mê photoshop vào nghiên cứu và thể hiện mình...tiêu biểu là www.dohoavn.net Nhớ cái xóa mụn là sử dụng luôn trên thanh công cụ mà ![]() ![]() |
#5
|
|||
|
|||
![]() Thì cho vô đây, cho khỏi kiếm. Xây dựng Box cho BX mà nói thế hả :-w :-w .
|
#6
|
|||
|
|||
![]() Tiếp đi...đừng có spam >.< Giới thiệu xong cái Thanh công cụ òi bi giờ vô lồng layer luôn đi...kĩ năng chính ![]() |
#7
|
|||
|
|||
![]() Bài 3 : Layer
Layer và layer palette - 03-16-2007, 02:45 PM Layer Layer là một khái niệm mới được đưa vào photoshop từ phiên bản 3.0. Đó là một bước tiến lớn, vì layer mang đến cho bạn khả năng tác động lên từng phần riêng biệt của bức ảnh một cách dễ dàng. Tưởng tượng các layer là những tấm kính trong suốt nằm chồng lên nhau và bạn vẽ lên từng tấm kính đó. Bức ảnh kết quả cuối cùng của bạn sẽ tương đương với ảnh nhìn từ trên xuống, xuyên qua tất cả các tấm gương. Chỉ số Opacity( hay đầy đủ là Blend Opacity) – độ mờ giống như độ trong suốt của tấm gương. Khi có 2 layer, Opacity của layer nằm trên là 0% thì coi như tấm gương đó trong suốt hoàn toàn và bạn chỉ nhìn thấy layer dưới(coi như không có layer trên). Bạn thử điều chỉnh thông số này sẽ thấy. Bạn có thể tạm bỏ một layer nào đó bằng cách hide nó đi: Click vào biểu tượng con mắt ở trước mỗi layer. Để unhide, click thêm lần nữa Khi có một layer nào đang được chọn, tất cả những thứ bạn vẽ, viết sẽ nằm trên layer đó và khi bạn hide nó đi, mọi thứ sẽ biến mất. Ngoài ra để thay đổi thứ tự của các tấm kính, các layer, bạn chỉ việc nắm lấy và kéo các layer lên xuống. Layer palette ![]() A. Layers palette menu B. Layer set C. Layer D. Layer thumbnail E. Layer effect Khung trắng ở hàng trên cùng, bên cạnh opacity là Blend Mode. Blend mode là chế độ cho phép thay đổi sự hòa trộn màu giữa layer trên và layer dưới > thay đổi hình ảnh kết quả. Layer palettte mặc định sẽ hiển thị khi bạn khởi động photoshop lần đầu tiên, nếu bạn không thấy nó hãy vào Window > Layers Click vào hình tam giác (A) để hiển thị menu lệnh của layer Tạo layer set Layer set giống như các folder trong windows, bạn có thể đặt các layer vào trong đó. Nếu bạn làm một công việc phức tạp, việc đặt tên layer(click double chính xác vào tên layer vd layer 1 để đổi tên) và group các layer giúp bạn dễ hình dung từng phần của bức ảnh. Bạn cũng có thể dễ dàng hide tất cả các layer trong một group băng cách tắt con mắt bên cạnh group đó đi. Cách tạo layer set. Từ menu lệnh của layer > New layer set và kéo các layer vào trong set đó. Về layer Background, thường khi bạn mở một file ảnh, sẽ chỉ có một layer background và nó sẽ có biểu tượng lock, bạn không thể thay đổi gì trên đó cả. Và bạn phải click double để đổi tên nó > enter. Layer bây giờ chuyển thành layer 1 và bạn đã có thể thao tác với nó Bí quá thì tham khảo phần HELP của Photoshop |
#8
|
|||
|
|||
![]() Bài 4 : Cơ bản về chiến lược xử lý ảnh Chiến lược xử lý ảnh Bạn có thể chỉnh sửa một tấm hình trông như được chụp bởi những chuyên gia giàu kinh nghiệm. Bạn có thể sửa những sai sót của chất lượng màu và tông màu được tạo ra trong quá trình chụp hình hoặc scan hình. Bạn cũng có thể chỉnh sửa những thiếu sót trong bố cục của bức tranh và làm rõ toàn cảnh một tấm hình. Photoshop cung cấp một bộ công cụ chỉnh sửa màu sắc toàn diện để điều chỉnh tông màu của những tấm hình riêng lẻ. ImageReady có bộ công cụ xử lý màu cơ bản hơn bao gồm Levels, Auto Levels, Brightness/ Contrast, Hue/ Saturation, Destuarion, Invert, Variations và bộ lọc Unsharp Mask. Nhưng bước cơ bản để xử lý ảnh: Trong tiến trình xử lý ảnh có tất cả 8 bước cơ bạn: Nhân đôi layer hình gốc (khi xử lý anh chúng ta luôn làm việc với một bản copy, vì nếu bạn quay lại tình trạng ban đầu thì chỉ cần xoá layer đang chỉnh sửa đi). Kiểm tra chất lượng scan và chắc chắn rằng độ phân giải thích hợp với cách mà bạn sẽ dùng tấm hình. Chỉnh sửa những vết xước trong quá trình scan những tấm hình bị hư hại. Cắt một tấm hình để có kích cỡ và hướng thích hợp. Điều chỉnh độ tương phả và tông màu của bức ảnh Loại bỏ những màu không cần thiết. Điều chỉnh màu và tông màu của một vùng nhất định trong tấm hình để tạo độ bóng, Midtones, Shadow và Desaturate. Làm rõ toàn bố cục của bức tranh Thường thì bạn nên theo thứ tự như trên khi xử lý một tấm hình. Nếu không kết quả của một bước có thể tạo ra những thay đổi không mong đợi ở một phần của hình ảnh, làm cho bạn phải mất thời gian làm lại một bước nào đó. Ở phần sau của cuốn sách này, bạn sẽ có cơ hội để thực hành với Adjustment Layer, đây là một kỹ thuật khác cho phép bạn linh động hơn trong việc thử những sửa đổi mà không sợ ảnh hưởng đến hình gốc. Điều chỉnh các bước tiến hành cho mục đích của bạn Những kỹ năng sửa chữa ảnh mà bạn thiết lập cho một tấm hình phụ thuộc vào cách mà bạn sẽ dùng nó. Bức hình đó sẽ là hình trắng đen để in trên báo hoặc một tấm hình đầy màu sắc để dùng trên internet ảnh hưởng đến tất cả mọi thứ từ độ phân giải khi bạn scan cho đến tông màu và độ chỉnh sửa màu mà tấm hình đó yêu cầu. Photoshop hỗ trợ chế độ màu CMYK để in hình, hoặc RGB và một vài chế độ khác. ImageReady chỉ hỗ trợ duy nhất chế độ RGB sử dụng cho màn hình vi tính. Để minh hoạ cho một ứng dụng của xử lý hình, chương này sẽ hướng dẫn bạn cách chỉnh sửa một tấm hình được dùng để in trong chế độ bốn màu. ![]() Dùng trong ứng dụng web: In ra giấy và dùng cho màn hình vi tính Mặc dù bạn có thể tạo ra những xuất bản phẩm cho cả hai mục đích là in ra giấy hoặc dùng cho màn hình, bạn hãy nhớ rằng giấy và màn hình vi tính rất khác biệt. Luôn luôn để ý đến điểm này khi bạn tạo một xuất bản phẩm cho mục đích của mình Chữ có thể nhỏ và vẫn rõ ràng trên giấy, bởi vì những chấm in mực trên giấy thì nhỏ hơn nhiều là những chấm được tạo ra bởi các tia trên máy tính. Cho nên tránh những dòng chữ nhỏ và chi tiết quá nhỏ khi hiện thị trên màn hình. Điều này có nghĩa rằng sẽ khó khăn hơn nhiều để sử dụng định dạng đa hàng cột một cách hiệu quả trên màn hình vi tính. Có rất nhiều loại màn hình máy tính và bạn không thể chắc rằng khách đến thăm trang web của bạn sẽ dùng loại màn hình có độ phân giải nào. Bạn nên thiết kế hình phù hợp với loại máy có độ phân giải nhỏ nhất khoảng 800 x 600 Px. Ngược lại, khi bạn in trên giấy, bạn biết rõ được kích thước của nó và thiết kế hình phù hợp với khổ giấy đó. Độ lớn của màn hình máy tính được tính theo là chiều ngang, trong khi hầu hết những trang in ấn, độ lớn lại tính theo chiều dài. Yếu tố này ảnh hưởng sâu sắc đến cách dàn trang của bạn. Một ấn bản thường được đọc theo trình tự, thậm chí bạn muốn nhảy cóc thì bạn cũng phải lật từ trang này sang trang khác. Trong những ấn bản trực tuyến, người đọc có thể đi bất cứ chỗ nào tại bất cứ thời điểm nào, bằng cách sẽ vào một trang nhất định hoặc sử dụng đường liên kết để đi đến một trang khác thậm chí đến một trang hoàn toàn khác với trang họ đang xem. Độ phân giải và kích thước hình Bước đầu tiên để chỉnh sửa một tấm hình trong Photoshop là bạn phải đảm bảo rằng nó đang ở độ phân giải phù hợp. Thuật ngữ "độ phân giải" có nghĩa rằng hàng loạt những hình vuông nhỏ được biết đến như là các đơn vị Pixel, nó thể hiện lên một tấm hình và tạo ra những chi tiết. Độ phân giải được xác định bởi kích thước Pixel, hoặc những giá trị Px tính theo chiều cao hay chiều rộng của file hình. ![]() Những kiểu của độ phân giải: Trong đồ hoạ máy tính, có nhiều loại độ phần giải: Những Px trên một đơn vị chiều dài của file ảnh được gọi là Độ phân giải hình ảnh (Image resolution), thường được tính bằng Px/Inch. Một file hình có độ phân giải cáo thì có nhiều Px hơn và dĩ nhiên là có dung lượng lớn hơn một file hình với cùng kích thước nhưng với độ phân giải thấp hơn. Hình ảnh trong Photoshop có thể thay đổi từ hình có độ phân giải cao là (300 PPI hoạc cao hơn) đến hình có độ phân giải thấp là (72 PPI hoặc 96 PPI). Trong khi hình ảnh trong ImageReady được cố định là 72 PPI. Những Px trên một đơn vị chiều dài ở màn hình máy tính là "độ phân giải màn hình", thường được tính bằng những dấu chấm trên một inch (dpi). Pixel hình ảnh được chuyển trực tiếp thành Px của màn hình. Trong Photoshop, nếu độ phân giải của hình cao hơn độ phân giải của màn hình, file hình sẽ xuất hiện lớn hơn trên màn hình hơn là kích thước khi được in ra. Ví dụ, khi bạn xem hình 1 x 1 Inch, 144 ppi trên màn hình 72-dpi, file hình sẽ phủ 2 x 2 inch của màn hình. Những file hình trong ImageReady có độ phân giải cố định là 72 ppi và hiển thị trên độ phân giải của màn hình. ![]() Chú ý: Bạn biết 100% view có nghĩa là gì không? nó có nghĩa rằng khi bạn làm việc trên mà hình tại giá trị là 100% thì 1Px của hình = 1 Px của màn hình. Nếu độ phân giải của hình không giống với độ phân giải của máy tính, thì kích thước trên màn hình có thể to hơn hoặc nhỏ hơn kích thước của file hình khi được in ra. Nhưng chấm mực trên một inch được tạo bởi bộ định hình hoặc máy in Laser sẽ là độ phân giải đầu ra (output resolution). Dĩ nhiên, một máy in và hình có độ phân giải cao kết hợp với nhau sẽ cho ra kết quả tốt nhất. Độ phân giải thích hợp cho một tấm hình in ra được xác định bởi cả hai độ phân giải của máy in và tần số của màn hình (Screen Frequency) hoặc lpi (lines per inch) hoặc màn hình bán sắc được sử dụng để sao chép hình ảnh. Bạn hãy nhớ rằng hình có độ phân giải càng cao, thì dung lượng của nó càng lớn và sẽ mất nhiều thơi gian hơn để load trên mạng Độ phân giải cho bài học này Để xác định độ phân giải cho những tấm hình trong bài học này, chúng ta sẽ tuân theo luật của đồ hoạ máy tính về hình ảnh màu hoặc đơn sắc (trắng đen) sẽ được sử dụng để in ấn bởi những máy in thương mại rất lớn: Scan vào với độ phân giải là 1.5 đến 2 và nhân với tần số màn hình sử dụng bởi máy in. Bởi vì khi xuất bản báo chí hình ảnh thường được in ở tần số là 133 lpi, hình được scan tại 200 ppi (133 x 1.5). Băt đầu Hình minh hoạ dùng trong bài học này là một hình được scan. Trong chương này, bạn sẽ chuẩn bị cho tấm hình để dùng trong Adobe InDesign và dùng cho báo về khoa học viễn tưởng. Độ lớn cuối cùng của hình khi in sẽ là 2 x 3 Inches. Bạn sẽ bắt đầu bài học bằng việc xem hình kết quả trước. Hình mà chúng ta sẽ làm là một hình có một chiếc cửa sổ được che chắn bởi một hàng cây hoa Phong Lữ. 1. Khởi động Photoshop và ngay lập tức nhấn Ctrl-Alt-Shift để trả lại thiết lập mặc định. Một thông báo xuất hiện, chọn Yes để xác nhận rằng bạn muốn quay lại giá trị mặc định. No để thiết lập màu của màn hỉnh và Close để đóng màn hình chào mừng lại. 2. Trên thanh tuỳ biến công cụ, chọn nút File Browser và sử dụng Folder Palette để tìm và chọn Lessons/Lesson3 trên ổ cứng của bạn. 3. Trong chế độ hiển thị hình thu nhỏ, chọn 03End.psd file để nó xuất hiện trên cửa sổ xem trước của File Browser. 4. Chọn hình thu nhỏ của file 03Start.psd và so sánh nó với file 03End.psd. Sau đó nhấp đúp vào hình thu nhỏ hoặc hình xem trước của file 03Start.psd để mở nó ra trong Photoshop. Đóng File Browser lại. Để xem thêm vài hình minh hoạ về màu sắc trong bài học này, xem phần về màu sắc. Màu sắc của hình 03Start.psd rất mờ và dại, hình scan không được thẳng, và có độ lớn lớn hơn hình yêu cầu khi in ra. Đó là những điều bạn phải chỉnh sửa trong bài học này sử dụng kỹ năng chỉnh sửa ảnh của Photoshop. 5. Chọn File > Save As và lưu file vào cùng vị trí như trước, nhưng đặt tên nó là 03Work.psd. Nên nhớ là khi bạn tạo ra những thay đổi trên một tấm hình, luôn luôn tạo một bản copy và làm việc trên đó hơn là làm việc với hình gốc. Vì nếu chẳng may bạn có làm sai cái gì và không thể quay lại trạng thái cũ được, thì bạn vẫn có thể mở file copy ra và làm lại từ đâu. Chỉnh ngay ngắn và Crop một hình Trong phần này bạn sẽ dùng công cụ Crop để cắt và định tỉ lệ cho một tấm hình sao cho nó ăn khớp với vị trí cần đặt. Bạn có thể sử dụng công cụ crop hoặc lệnh crop để cắt nó. Bạn có thể quyết định khi nào thì xoá, ẩn hoặc loại bỏ vùng nằm ngoài vùng lựa chọn. Trong ImageReady, lựa chọn ẩn rất cần thiết khi bạn tạo những hình động với những thành phần di chuyển từ những vùng không nhìn thấy sang vùng thấy được. 1. Ở hộp công cụ chọn Crop Tool (). Sau đó trên thanh Tuỳ biến gõ vào giá trị bằng Inch với tỉ lệ tương ứng là Width: 2 và Height: 3 ![]() Chú ý: Nếu bạn đang làm việc trong ImageReady, chọn lựa chọn Fixed Size trên thanh tuỳ biến trước khi điền giá trị vào. 2. Vẽ một vùng lựa chọn bao quanh hình của bạn. Đừng bận tâm đến việc bạn có bao quanh hết phần chính của hình không, vì bạn có thể điều chỉnh sau này. Khi bạn kéo, vùng lựa chọn sẽ duy trì tỉ lệ 2/3 như bạn đã định dạng cho nó. Trên thanh tuỳ biến công cụ, một vùng tối mờ bao phủ lấy vùng bạn sẽ loại bỏ, và thanh tuỳ biến hiển thị lựa chọn cho vùng bao phủ đó. 3. Trên thanh tuỳ biến công cụ, bỏ đánh dấu ở hộp kiểm Perspective (nếu có) 4. Trên cửa sổ chứa hình bạn di con trỏ ra ngoài vùng lựa chọn, nó sẽ biến thành một mũi tên cong hai đầu . Xoay nó theo chiều kim đồng hồ để chuyển hướng vùng lựa chọn cho đến khi nó song song với hai cạnh đáy của cửa sổ. ![]() 5. Đặt con trỏ vào bên trong vùng lựa chọn, và kéo vùng lựa chọn cho đến khi nó bao quanh hết những chi tiết của bức tranh sao cho sau khi cắt sẽ có một kEết quả đẹp nhất. Nếu bạn muốn thay đổi độ lớn của vùng lựa chọn, kéo một trong những ô vuông trên đường chấm chấm. 6. Nhấn Enter để thiếp lập vùng lựa chọn. Bức ảnh của bạn đã được cắt và hình vừa được cắt sẽ phủ đầy cửa sổ hiện hành, ngay ngắn, chỉnh lại kích cỡ, và cắt đẹp đẽ theo những gì bạn thiết lập. ![]() Trong Photoshop và ImageReady bạn có thể vào Image > Trim, lệnh này sẽ bỏ đi đường biên bao quanh viền file hình của bạn dựa trên độ trong suốt và màu của đường biên. 7. Vào File > Save để lưu lại tác phẩm của bạn Thử sử dụng File > Automate > Crop And Straighten Photos khi bạn làm việc với những hình do bạn scan. Photoshop nó có thể nhận biết được đường biên hình vuông của hình ảnh sẽ tương phản với hình nền của nó như thế nào và dựa trên đó nó có thể chỉnh ngay ngắn một tấm hình cho từng vùng một. Sau đó bạn sẽ cắt lại những hình nếu cần để đẹp hơn. Sử dụng điều chỉnh tự động Photoshop CS bao gồm rất nhiều những thuộc tính có tính tự động hoá hiệu quả cao có thể chỉnh sửa hình ảnh và giúp bạn tiết kiệm rất nhiều công sức. Đó là tất cả những gì bạn cần để sử dụng trong những trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, nếu bạn muốn có thêm quyền kiểm soát, bạn có thể làm việc với một vài những thuộc tính kỹ thuật và điều khiển có sẵn trong Photoshop. Ban đầu bạn hãy thử với những tác vụ tự động chỉnh sửa trước. Sau đó bạn sẽ tự mình chỉnh sửa ở một phiên bản copy khác của tấm hình. 1. Hãy lưu lại file hình sau khi bạn đã cắt xong như ở các bước trên đã hướng dẫn, chọn File > Save. 2. Chọn File > Save As, gõ 03Auto.psd để đặt lại tên cho file được cắt ở trên, sau đó nhấn vào Save. 3. Chọn Image > Adjustment > Auto Color. 4. Chọn Image > Adjustment > Shadow/Highlight. 5. Trong hộp thoại Shadow/Highlight, kéo thanh trượt Highlight và Shadow nếu cần cho đến khi bạn thấy đẹp. Đánh dấu vào hộp kiểm Preview để bạn có thể thấy được những thay đổi bạn đang áp dụng lên tấm hình ở cửa sổ hình ảnh. ![]() 6. Nhấn OK để đóng hộp thoại, và chọn File > Save. 7. Đóng file 03Auto.psd lại và chọn File > Open Recent và chọn 03Work.psd ở menu phụ của những file được mở gần đây nhất. Điều chỉnh tông màu Tông màu của một hình ảnh thể hiện độ tương phản hoặc chi tiết trên một tấm hình và được xác định bởi mức phân chia đồng đều của các đơn vị Px. Sắp đặt từ những Px tối nhất (màu đen) đến Px sáng nhất (Trắng). Bây giờ bạn sẽ học cách chỉnh sửa màu của một tấm hình bằng lệnh Levels Trong bài học này, bạn sẽ sử dụng một biểu đồ trong hộp thoại Levels, biểu đồ này thể hiện phạm vi của giá trị tối và sáng. Biểu đồ này có thể điều khiển Shadows, Hightlights và Midtones hoặc gam của một hình. Bạn cúng sẽ dùng đến Histograme Palette, vì nó cũng hiển thị thông tin cho bạn. Trừ phi bạn muốn có một hiệu ứng đặc biệt, nếu không thì lược đồ lý tưởng là lược đồ mở rộng ra hết chiều dài của biểu đồ, và điểm giữa có những chỗ cao và chỗ thấp khá bằng nhau. Điều đó cho bạn thấy rằng thông tin về các đơn vị pixel khá đều nhau ở Midtone. 1. Chọn Window > Histogram, hoặc nhấn vào thẻ Histogram trong Navigator Palette để hiển thịn nó. Sau đó chọn Expanded View trong Menu Palette. ![]() 2. Vào Image > Adjusment > Levels để mở hộp thoại Levels 2. Đánh dấu vào hộp kiểm Preview (nếu chưa), di chuyển hộp thoại Levels nếu cần để bạn có thể nhìn thấy cả hai Histogram và cửa sổ làm việc. Ở giữa của hộp thoại bạn sẽ thấy ba hình tam giác nhỏ được đặt ở dưới biểu đồ. Ba hình này thể hiện những vùng sau: Shadow (tam giác màu đen), Higlight (Tam giác màu trắng) và Midtone hoặc Gamma (Tam giác màu xám). Nếu màu của tấm hình của bạn hoàn toàn nằm trong phạm vi của tông màu sáng, đồ thị sẽ mở rộng hết chiều dài của biểu đồ, từ tam giác đen đến trắng. Chú ý ở thời điểm này, biểu đồ trong hộp thoại Levels giống với biểu đồ trong Histogram Palette. ![]() 4. Kéo hình tam giác bên trái sang phía phải đến điểm mà biểu đồ chỉ ra rằng đó là điểm tối nhất. Trong khi bạn kéo, giá trị đầu tiên của Input Levels (nằm trên biểu đồ) thay đổi và hình ảnh cũng thay đổi theo. Trong Histogram Palette, phần bên trái của biểu đồ giãn ra đường biên của khung. Điều đó có nghĩa rằng giá trị của vùng tối nhất đang tiến gần đến màu đen. Chú ý: Bạn có thể kéo để thay đổi giá trị của Input Levels: Đầu tiên nhấp chuột vào hộp văn bản để chọn giá trị bạn muốn thay đổi, sau đó kéo con chuột lên trên chữ "Input Levels". Sẽ có mũi tên hai đầu xuất hiện và bạn có thể kéo để thay đổi nó. 5. Kéo tam giác bên phải về bên trái đến điểm biểu đồ hiển thị là vùng sáng nhất. Để ý những thay đổi cả trên tấm hình và Histogram Palette. 6. Kéo tam giác ở giữa một đoạn ngắn sang bên trái để làm sáng Midtones. Để ý những thay đổi cả trên tấm hình và Histogram Palette để xác định bạn sẽ kéo tam giác đó như thế nào cho vừa. 7. Khi bạn hài lòng với kết quả (giá trị Input Levels của ví dụ là 18, 1.30 và 232) nhấn Ok để chấp nhận thay đổi và lưu kết quả lại. Chú ý: ImageReady không có lệnh Histogram nhưng có lệnh Levels. Do vậy nếu bạn muốn điều chỉnh và xem biểu đồ thì dùng lệnh Levels thay thế Auto Contrast Bạn cũng có thể điều chỉnh độ tương phản (Highlight và Shadow) và toàn bộ màu sắc của hình tự động bằng cách sử dụng lệnh Image > Adjustments> Auto Contrast. Điều chỉnh độ tương phản thay đổi những pixel tối nhất và sáng nhất trong tấm hình thành đen và trắng. Cách sắp sếp lại này gây ra những vùng sáng sẽ sáng hơn và những vùng tôi thì tối hơn và có thể cải thiện chất lượng hình ảnh hoặc những hình có tông màu kề nhau Lệnh Auto Contract rút ngắn những Px trắng và đen xuống 0.5%. Nó bỏ qua 0.5% ban đầu những Px quá sáng hoặc quá tối của một tấm hình. Sự rút ngắn giá trị của màu này đảm bảo giá trị của trắng đen là những vùng tiêu biểu của nội dung tấm hình hơn là những giá trị pixel cực đại. Ở bài tập này bạn sẽ không dùng đến lệnh Auto Contrast, nhưng đó là lệnh bạn nên biết và bạn có thể dùng vào những việc riêng của bạn Loại bỏ những màu không cân bằng Một vài tấm hình bao gồm những màu không cân bằng gây ra bởi quá trình scan hoặc đã có sẵn trên hình gốc. Hình cửa sổ dưới đây có một chút màu xanh không cân bằng. Bạn sẽ sử dụng Auto Color trong Photoshop để sửanó. (Trong ImageReady không có lệnh Auto Color cho nên bạn phải làm trong Photoshop) Chú ý: Để nhìn được những vùng màu không cân bằng trên màn hình vi tính, bạn cần có màn hình màu là 24-bit, ở màn hình 256 màu (8 bit) thì những vùng này khó phát thấy hoặc thậm chí không thể nhìn thấy được. 1. Chọn Image > Adjustment > Auto Color. Và bạn sẽ thấy màu xanh đó biến mất. 2. Lưu file hình của bạn lại Vài điều về Auto Contrast: Lệnh Auto Contrast điều chỉnh độ tương phản và màu của hình bằng cách tìm những hình ảnh thật hơn là Shadow, Midtones và Highlight. Nó trung hoà Midtone và rút ngắn những Px trắng và đen dựa trên những giá trị thiệt lập trong hộp thoại Auto Correction. Thiết lập tuỳ biến Auto Correction (Photoshop) Hộp thoại Auto Correction cho phép bạn tự động điều chỉnh tông màu toàn diện của tấm hình, định rõ phần trăm rút ngắn, và quy định giá trị màu cho những vùng tối, Midtones và Highlight. Bạn có thể áp dụng những thiết lập trong quá trình sử dụng hộp thoại Level hoặc Curves. Bạn cũng có thể lưu lại những thiết lập này để sau này dùng tới. Để mở hộp thoại Auto Correction Option, nhấp chuột vào Options trong hộp thoại Levels hoặc Curves Thay thế màu của hình. Với lệnh Replace Color bạn có thể tạm thời tạo ra Mask dựa trên một mầu cụ thể nào đó và sau đó thì thay thế màu này. (Mask sẽ cô lập một vùng của tấm hình, cho nên những thay đổi gì chỉ tác động lên vùng được lựa chọn mà không ảnh hưởng gì đến những vùng khác). Hộp thoại Replace Color bao gồm lựa chọn để điều chỉnh những thành tô Hue, Saturation và Lightness của vùng lựa chọn. Hue là màu sắc; Saturation là mức thuần khiết của màu và Lightness là mức độ của màu trắng và đen trong hình. Bạn sẽ dùng lệnh Replace Color để thay đổi màu của bức tường ở phía trên của tấm hình. Lệnh Replace Color khôgn có trong ImageReady 1. Chọn Rect Marq () và vẽ một vùng lựa chọn xung quanh bức tường màu xanh tại phía trên của tấm hình. Đừng quan tâm đến việc vẽ một vùng lựa chọn hoàn hảo, nhưng bạn chỉ cần để ý là vùng lựa chọn phải bao quanh hết vùng tường màu xanh. ![]() 2. Chọn Image > Adjustmnet > Replace Color để mở hộp thoại Replace Color. Bởi mặc định, vùng lựa chọn của hộp thoại Replace Color xuất hiện một hình vuông đen thể hiện vùng lựa chọn hiện tại. ![]() Chú ý đến biểu tượng của 3 công cụ Eyedropper trong hộp thoại Replace Color. Cái thứ nhất chọn một màu đơn, cái kế tiếp chọn một màu thêm vào và thêm màu đó vào vùng lựa chọn, cái cuối cùng chọn những màu mà bị loại bỏ bởi vùng lựa chọn. A: Chọn màu đơn B: Màu thêm vào C: Bớt đi 3. Chọn cái thứ nhất (A) công cụ Eyedropper () trong hộp thoại Replace Color và nhấp vào một vùng bất kỳ trên bức tường xanh để tô tất cả vùng lựa chọn với màu đó. ![]() 4. Trong hộp thoại Replace Color, chọn công cụ Eyedropper-plus () và kéo sang những vùng khác nhau của của bức tường xanh cho đến khi tất cà hình của bức tường được highlight bằng màu trắng trong hộp thoại ![]() 5 Điều chỉnh mức dung sai của Mask bằng cách kéo thanh trượt Fuzziness hoặc gõ vào giá trị là 80 ![]() Fuzziness điều khiển mức độ của những màu liên quan có trong Mask. 6. Nếu có một vùng trắng nào đó của Mask xuất hiện trong hộp thoại Replace Color thì đó không phài là phần của bức hình, chọn Eyedropper-Minus và nhấp vào vùng màu đen xung quanh vùng lựa chọn ở trong hộp thoại Replace Color để loại bỏ hầu hết những vùng trắng. ![]() 7. Trong vùng Transform của hộp thoại Replace Color, kéo thanh trượt Hue xuống còn -40, Saturation: -45 và Lightness: 0 ![]() Khi bạn thay đổi giá trị, màu của bức tường sẽ thay đổi ở Hue, Saturation và Lightnes cho nên bức tường bây giờ sẽ thành màu xanh lá cây. 8. Nhấn Ok để thiết lập thay đổi. 9. Chọn Select > Deselect và chọn File > Save Điều chỉnh Lightness với công cụ Dodge Bạn sẽ dùng Dodge Tool ![]() 1. Trong hộp công cụ chọn Dodge Tool (), trong ImageReady công cụ Dodge được ẩn đằng sau công cụ Clone Stamp () ![]() 2. Trên thanh tuỳ biến công cụ, thiết lập thông số như hình dưới: ![]() 3. Dùng những nét cọ thẳng đứng và kéo công cụ lướt qua màn gió để làm xuất hiện những chi tiết của nó và loại bỏ những vết mờ ở trên đăng ten của màn gió. Bạn không cần thiết phải luôn luôn sử dụng những nét cọ thẳng đứng với công cụ Dodge, nhưng nó với riêng tấm hình này nó làm việc hiệu quả nhất. Nếu bạn làm sai hoặc không thích kết quả bạn có thể chọn Edit > Undo và thử lại cho đến khi bạn hài lòng với kết quả. Bạn có thể dùng lệnh undo hoặc History Palette để quay lại thao tác trước nếu bạn không vừa ý với những thay đổi vừa tạo. ![]() 4. Chọn File > Save Điều chỉnh Saturation với công cụ Sponge Bây giờ bạn sẽ dùng công cụ Sponge để tô đậm màu của đỏ của bông hoa Phong Lữ. Khi bạn điều chỉnh độ đậm của màu sắc là khi đó bạn điều chỉnh độ mạnh và tính tinh khiết của màu. Công cụ Sponge rất hữu ích cho việc thay đổi độ đâm tinh tế cho một vùng cụ thể nào đó. 1. Chọn công cụ Sponge , được ẩn ở dưới công cụ Dodge . ![]() ImageReady cũng có công cụ Sponge được ẩn dưới công cụ Clone Stamp . 2. Trên thanh tuỳ biến công cụ, thiết lập những thông số như hình sau 3. Kéo công cụ Sponge qua lại trên hoa và lá để tăng màu cho nó. Bạn càng kéo nhiều thì màu càng trở lên đậm hơn ![]() 4. Lưu lại kết quả của bạn Áp dụng bộ lọc Unsharp Mask Bước cuối cùng bạn dùng để chỉnh sửa một tấm hình là bằng cách sử dụng bộ lọc Unsharp Mask. Công dụng của nó dùng để điều chỉnh độ tương phản của những tiểu tiết và tạo cho người xem có cảm giác bức ảnh đẹp hơn nhiều. 1. Chọn Filter > Sharpen > Unsharp Mask 2. Trong hộp thoại Unsharp Mask, đánh dấu vào hộp kiểm Preview (nếu chưa). Bạn có thể kéo trong cửa sổ xem trước ở hộp thoại Unsharp Mask để thấy những vùng khác nhau của tấm hình hoặc sử dụng dấu (+) và dấu (-) ở dưới thumbnail zoom in và out. ![]() 3. Kéo thanh trượt Amount cho đến khi bạn hài lòng với độ nét. Khi bạn thử với những thông số khác nhau, bạn có thể tắt hoặc mở hộp kiểm Preview để quan sát những thay đổi tác động đến tấm hình như thế nào. Hoặc bạn có thể nhấp vào tấm hình trong hộp thoại để tắt hoặc bật filter. Nếu tấm hình của bạn quá lớn, sử dụng màn hình trong hộp thoại có thể sẽ hiệu quả hơn bởi vì chỉ một vùng nhỏ được kéo lại 4. Kéo thanh trượt Radius để xác định số Px bao quanh viền, những Px này sẽ tác động đến Sharpening. Độ phân giải càng cao, thì giá trị Radius cũng nên để cao. (tôi dùng giá trị mặc định là 1.0 Px) 5. (Tuỳ chọn) Bạn có thể điều chỉnh thanh trượt Threshold. Nó có tác dụng xác định những đơn vị pixel được làm sắc nét sẽ phải khác biệt với những vùng xunh quanh đó như thế nào trước khi nó được coi là những đơn vị pixel đường viền và cuối cùng được làm sắc nét bởi bộ lọc Unsharp Mask. Giá trị mặc định của nó là 0 Px làm nét cho tất cả các Px trên tấm hình. 6. Nhấp Ok để thiết lập Unsharp Mask Làm nét một tấm hình Unsharp Mask hay còn được gọi là USM, là một kỹ xảo phim ảnh tổng hợp cổ điển sử dụng để làm nét những đường viền của một tấm hình. Filter USM chỉnh sửa những vùng bị mờ xuất hiện khi chụp ảnh, scan hoặc in ấn. Nó rất hữu ích cho những tấm hình dùng cho in ấn hoặc cho ứng dụng web. Filter USM định vị những Px có sự khác biệt với những Px xung quanh bằng thanh trượt Threshold bạn điều chỉnh và tăng độ tương phản của Px bằng thanh trượt Amount. Hơn nữa, thanh trượt Radius cho phép bạn cụ thể hoá một vùng mà ở đó những Px sẽ được so sanh. Hiệu ứng mang lại từ Filter USM thì rõ ràng hơn rất nhiều trên màn hình hơn là những tác phẩm in ấn với độ phân giải cao. Nếu mục đích của bạn là in ấn, thì bạn hãy thử nghiên cứu những thông số của hộp thoại USM để tìm ra thông số nào làm bạn hài lòng nhất. So sánh hai cách làm tự động và tự điều chỉnh Ở phần đầu của bài học, bạn chỉ điều chỉnh hình ảnh bằng các tác vụ tự động. Ở cả phần cuối của bài học, bạn kiên nhẫn áp dụng từng phần một để có một kết quả cụ thể hơn. Bây giờ là lúc để so sanh hai kết quả. 1. Chọn File > Open Recent và chọn 03Auto.psd ở trong danh sách menu phụ, nếu nó ở đó. Còn không, chọn File Browser và chọn File > Open để tìm và mở file đó. 2. Chọn Window > Arrange > Tile để sắp xếp hai hình 03Auto.psd và 03Work.psd cạnh nhau. 3. So sánh hai kết quả với nhau. 4. Đóng file 03Auto.psd lại. Đối với vài người, những tác vụ tự động là tất cả những gì họ cần. Với những ai kỹ tính hơn trong thẩm mỹ, thì cách tự điều chỉnh là cách họ thích hơn. Điều tốt nhất ở đây là bạn phải hiểu được những cái hơn thiệt của cả hai phương pháp và chọn ra phương pháp nào thích hợp hơn cho bạn. Nguồn : Viet Photoshop , Bá tước Monte Cristo . Mấy cái này, có gì ko hiểu, xin cứ post câu hỏi lên , các mem sẽ cùng thảo luận ![]() |
#9
|
|||
|
|||
![]() Đúng là dân Photoshop...cái gì cũng xử lý....tính xấu [-X
=)) Serie bài này chừng nào mới hết đây....dài quá >.< |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
![]() |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|