Home Rules Contact  
Chợ thông tin Giáo dục Việt Nam
Đăng ký Hỏi đáp Danh sách thành viên Lịch Tìm Kiếm Bài gửi hôm nay Đánh dấu là đã đọc

Chợ thông tin Giáo dục Việt Nam Kiến thức xã hội Kiến thức văn học Văn học phổ thông, Thời Phục Hưng

Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 30-07-2012, 10:29 AM
thanhhungjsc thanhhungjsc đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 180
Mặc định Thời Phục Hưng

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Nguồn gốc và lịch sử

Thuật ngữ Rinascenza (tái sinh) được nhà sử học Giorgio Vasari dùng ban đầu vào năm 1550 để chỉ sự hồi sinh và phát triển rực rỡ các hoạt động nghệ thuật và khoa học bắt đầu tại Ý vào thế kỷ 13. Sau đó, thuật ngữ Renaissance được Jules Michelet dùng trong tiếng Pháp và nhà sử học Thụy Sỹ Jacob Burckhardt phát triển (khoảng những năm 1860). Tái sinh ở đây có hai nghĩa: một là sự khám phá lại các sách vở cổ điển và đem ứng dụng vào trong khoa học và nghệ thuật; hai là để chỉ kết quả của các hoạt động văn hóa đó mang lại sự hồi sinh cho văn hóa châu Âu nói chung. Như vậy Phục Hưng có thể hiểu theo hai cách chính tuy khác biệt nhưng đều có ý nghĩa là sự tái sinh của nền giáo dục cổ điển Tây phương thông qua sách vở, tài liệu kinh điển của phương Tây và hồi sinh của văn hóa châu Âu nói chung.

Từ Hán-Việt viết hoa Phục hưng, hay Phục Hưng, là thuật ngữ tương đương với khái niệm này.
Hồi sinh tinh thần của thời kỳ Cổ đại

Người đàn ông Vitruvius theo Leonardo da Vinci, một ví dụ tiêu biểu về sự pha trộn giữa nghệ thuật và khoa học vào thời Phục Hưng.Thời kỳ Phục Hưng được gọi như thế vì đặc tính cơ bản của thời kỳ này là sự hồi sinh của tinh thần thời kỳ Cổ đại. Chủ nghĩa Nhân văn chính là phong trào tinh thần cơ bản của thời kỳ này. Việc hồi sinh thể hiện ở chỗ nhiều yếu tố của tư tưởng thời kỳ Cổ đại được tái khám phá và sống lại (văn học, tượng đài kỷ niệm, tác phẩm điêu khắc, triết học,...).

Tiên đề cho tư tưởng mới của thời kỳ Phục Hưng là những ý tưởng tự tin của các nhà thơ người Ý của thế kỷ 14 như Francesco Petrarca, người thông qua các nghiên cứu rộng lớn về các nhà văn thời kỳ Cổ đại và với Chủ nghĩa Cá nhân của ông đã cổ động cho niềm tin về giá trị của sự đào tạo nhân văn và ủng hộ cho việc nghiêm cứu về ngôn ngữ, văn học, lịch sử và triết học bên ngoài quan hệ với tôn giáo.

Ảnh hưởng của những học giả nói tiếng Hy Lạp cũng rất đáng kể. Một số học giả đến Ý trong thế kỷ 13 và thế kỷ 14 từ Đế quốc Byzantin. Đặc biệt là sau khi người Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục Constantinople vào năm 1453 thì càng có nhiều học giả đến Venezia (tiếng Anh: Venice) và những thành phố Ý khác, những người đã mang theo kiến thức về nền văn hóa thời Cổ đại đã được lưu trữ gần 1.000 năm trong Đế quốc Byzantin sau khi Đế quốc Tây La Mã suy tàn. Cho đến năm 1400 Homer, Herodot, Platon và Aristoteles vẫn còn được rất nhiều người nhắc đến trong Đế quốc Byzantin. Một vài năm trước khi Đế quốc Byzantin sụp đổ, Giovanni Aurispa đã đến Constantinople và mang về Ý trên 200 bản viết tay các tác phẩm văn học ngoại đạo.

Trong một nghĩa rộng người ta hiểu Phục Hưng là sự hồi sinh của thời kỳ Cổ đại với các ảnh hưởng của thời kỳ này đến khoa học, văn học, xã hội, cuộc sống của những tầng lớp thượng lưu và sự phát triển của con người đi đến tự do cá nhân ngược lại với chế độ đẳng cấp của thời kỳ Trung cổ. Trong nghĩa hẹp hơn Phục Hưng là một thời kỳ của lịch sử nghệ thuật.

Tên gọi trong tiếng Ý, rinascita, theo nghĩa cho khái niệm của một thời kỳ, đã có từ Giorgio Vasari, người đã viết một trong những tác phẩm miêu tả các nhà nghệ thuật Phục Hưng quan trọng nhất. Vasari chia sự phát triển của nghệ thuật ra làm 3 thời kỳ:

Thời kỳ rực rỡ của Cổ đại Hy Lạp – La Mã
Thời kỳ suy tàn trung gian bắt đầu thời kỳ Trung Cổ
Thời kỳ hồi sinh các nghệ thuật và tinh thần Cổ đại trong thời kỳ Trung cổ từ khoảng năm 1250.
Vì thế mà các nhà điêu khắc, kiến trúc sư và họa sĩ người Ý, trong số đó có Arnolfo di Cambio, Nicolò Pisano, Cimabue hay Giotto di Bondone, ngay từ nửa sau của thế kỷ 13, "trong những thời kỳ đen tối nhất, đã chỉ ra cho những người tài giỏi đi sau con đường dẫn đến hoàn mỹ".
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
  #2  
Cũ 30-07-2012, 10:29 AM
tanbaolong2003 tanbaolong2003 đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 156
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Nghệ thuật

Leonardo da Vinci, Người đàn bà và con chồn, Bảo tàng Czartoryski, KrakówBrunelleschi, Ghiberti và Donatello là những người mở đường cho hướng đi mới trong nghệ thuật có tiền thân là Nicola Pisano, Giotto và những nghệ sĩ khác. Nói chung, ở Ý thời gian khoảng từ 1420 đến 1600 được gọi là thời kỳ Phục Hưng, trong châu Âu còn lại là thời gian từ 1500 đến 1600.

Bên cạnh sự mô phỏng theo nghệ thuật Cổ đại là việc nghiên cứu thiên nhiên tích cực hơn, một khía cạnh quan trọng trong lịch sử phát triển của nghệ thuật Phục Hưng. Ngay trước Vasari, nhiều nhà thơ như Boccaccio đã khen ngợi họa sĩ Giotto có thể vẽ lại sự vật giống như trong tự nhiên mà không có ai trước ông đạt được. Xu hướng tạo hình sự vật và con người theo tự nhiên từ đấy là một trong những ý muốn chính của các nghệ sĩ. Thế nhưng phải đến thế kỷ 15 thì các nghệ sĩ mới đạt được đến một cách mô tả theo tự nhiên gần như hoàn hảo. Vì thế mà các sử gia về nghệ thuật thường giới hạn khái niệm Phục Hưng cho các mô tả nghệ thuật trong thế kỷ 15 và thế kỷ 16.

Gắn liền với yêu cầu tự nhiên trong nghệ thuật là sự tôn vinh thời kỳ Cổ đại của các nghệ sĩ. Người ta ngưỡng mộ các tác phẩm nghệ thuật thời Cổ đại như là các thí dụ điển hình trong việc mô tả theo tự nhiên và vì thế là các thí dụ đáng được mô phỏng theo trong lúc tự diễn đạt tự nhiên. Ngoài ra nhà lý thuyết về kiến trúc người Ý, Leone Battista Alberti, còn đòi hỏi các nhà nghệ thuật "không những ngang bằng với các danh nhân thời kỳ Cổ đại mà còn phải cố gắng vượt lên trên họ". Tức là nghệ thuật không những phải diễn đạt lại một cách trung thực thực tế mà còn phải cố gắng cải thiện và làm hoàn hảo tấm gương của tự nhiên.

Bên cạnh xác định mới về quan hệ của nghệ thuật đối với tự nhiên và việc ngưỡng mộ thời kỳ Cổ đại, thời kỳ Phục Hưng cũng đặt câu hỏi về bản chất của cái đẹp. Các nghệ sĩ cố gắng diễn tả một con người đẹp toàn hảo. Kích thước và tỉ lệ lý tưởng đều đóng một vai trò trong việc diễn tả cơ thể con người trong hội họa và điêu khắc cũng như trong phác thảo kiến trúc. Với cách phối cảnh cổ điển các nghệ sĩ đã phát triển một phương pháp để diễn tả sự rút ngắn trong chiều sâu không gian với tính chính xác của toán học.

Thông thường người ta chia thời kỳ lịch sử nghệ thuật Phục Hưng, đặc biệt là Phục Hưng Ý, ra làm 3 giai đoạn

Tiền Phục Hưng (tiếng Anh: Early Renaissance)
Đỉnh cao của Phục Hưng (tiếng Anh: High Renaissance)
Hậu Phục Hưng hay Mannerism

Giai đoạn đầu của thời kỳ Phục Hưng (từ khoảng 1420 đến 1490/1500) khởi điểm từ thành phố Firenze (tiếng Anh: Florence) với những bức tượng của Donatello, tranh phù điêu đồng của Ghiberti, bích họa của Masaccio và các công trình xây dựng của Filippo Bruelleschi. Thời gian từ khoảng 1490/1500 cho đến 1520 là đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng. Trung tâm của thời kỳ vươn đến hoàn mỹ và hài hòa cao độ này là thành phố Roma của giáo hoàng. Đây là thời gian của phác thảo kiến trúc cho nhà thờ thánh Peter ở Roma của Bramante, các bức họa nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci, của Raffaello, các bức tượng và bích họa của Michelangelo cũng như các tác phẩm khắc đồng của Albrecht Dürer. Sau đó là thời kỳ Hậu Phục Hưng hay Mannerism với đặc trưng là có nhiều xu hướng nghệ thuật khác nhau. Mannerism có khuynh hướng cường điệu hóa kho tàng hình dáng của Phục Hưng (thí dụ như diễn tả cơ thể con người được kéo dài ra và uốn cong trong một cử động mạnh). Giai đoạn cuối của thời kỳ Hậu Phục Hưng dần dần chuyển sang phong cách Baroque.

Thế nhưng thời kỳ Phục Hưng không diễn ra theo một khuôn mẫu hoàn toàn giống nhau trên khắp châu Âu. Trong khi tinh thần Phục Hưng bắt đầu rất sớm và đặc biệt nở rộ ở Ý, có ảnh hưởng đều khắp trong hội họa, điêu khắc và kiến trúc thì mãi đến khoảng năm 1500 hay sau đó thời kỳ Phục Hưng mới bắt đầu ở phía Bắc của châu Âu và cũng chỉ chiếm ưu thế một phần, đồng thời mang nhiều tính cách dân tộc. Trong các quốc gia khác ngoài Ý kiến trúc và điêu khắc chịu ảnh hưởng nhiều hơn là hội họa. Tại Pháp và Đức phong cách cổ đại được hòa trộn với nhiều yếu tố dân tộc, nổi bật trong thời kỳ đầu của Phục Hưng hơn là trong thời kỳ Hậu Phục Hưng, thời kỳ mà hình dáng được thể hiện đầy đặn và mạnh mẽ hơn, chuyển đến cường điệu hóa của phong cách Baroque. Phong cách Phục Hưng tại Hà Lan, Ba Lan, Anh và Tây Ban Nha cũng mang sắc thái dân tộc.

Các nghệ sĩ nổi tiếng trong thời kỳ Phục Hưng
Lorenzo Ghiberti (1381–1455)
Donatello (1386–1466)
Fra Angelico (1387–1455)
Paolo Uccello (1397–1475)
Hans Multscher (ca. 1400–1467)
Masaccio (1401–1428)
Leone Battista Alberti (1404–1472)
Andrea Mantegna (1431–1506)
Andrea del Verrocchio (1436–1488)
Israhel van Meckenem Trẻ (1440/45–1503)
Donato Bramante (ca. 1444–1514)
Sandro Botticelli (1444/1445–1510)
Giuliano da Sangallo (1445–1516)
Domenico Ghirlandaio (1449–1494)
Pietro Perugino (ca. 1448–1523)
Leonardo da Vinci (1452–1519)
Luca Signorelli (ca. 1450–1523)
Andrea Sansovino (1460–1529)
Hans Holbein Già (khoảng 1465–1524)
Albrecht Dürer (1471–1528)
Hans Dürer
Stanisław Samostrzelnik
Eberhard Rosemberger
Francesco Florentino
Lucas Cranach Già (1472–1553)
Fra Bartolommeo (1474–1517)
Michelangelo Buonarroti (1475–1564)
Tiziano Vecellio (1477–1576)
Giorgione (khoảng 1477–1510)
Hans Burgkmair Già (1473 - 1531)
Albrecht Altdorfer (1480–1538)
Raffaello (1483–1520)
Antonio da Sangallo (1485–1546)
Andrea del Sarto (1486–1531)
Jacopo Sansovino (1486–1570)
Correggio (1489–1534)
Lucas von Leyden (1494–1533)
Hans Holbein Trẻ (khoảng 1497–1543)
Heinrich Aldegrever (1502–1555/61)
Parmigianino (1503–1540)
Lucas Cranach Trẻ (1515–1586)
Tintoretto (1518–1594)
Pieter Bruegel Già (khoảng 1525–1569)
Santi Gucci (1530-1600)
Bartolommeo Berrecci
Giovanni Baptista di Quadro
Bernardo Morando
Benedykt từ Sandomierz
Trả lời với trích dẫn


  #3  
Cũ 30-07-2012, 10:29 AM
camphat camphat đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 171
Mặc định

Hội họa

Phần lớn các bức tranh của nghệ thuật Phục Hưng là các bức tranh thờ và bích họa có nội dung tôn giáo được vẽ cho nhà thờ, tranh với các đề tài trần tục hay thần thoại không mang tính tôn giáo (thí dụ như biểu tượng (tiếng Anh: allegory), huyền thoại anh hùng hay thần thánh, lịch sử Cổ đại) và chân dung cá nhân của những danh nhân đương thời. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những tranh vẽ phong cảnh và phong tục đầu tiên, diễn tả cuộc sống thời bấy giờ.

Chiều sâu của không gian được thiết kế hình học một cách chính xác bằng phương pháp phối cảnh. Thêm vào đó là phương pháp phối cảnh không gian và phối cảnh màu. Người nghệ sĩ diễn tả cơ thể khỏa thân của con người như nghệ thuật khỏa thân bằng các tỷ lệ lý tưởng. Cách cấu trúc tranh cân bằng hài hòa và đối xứng được hỗ trợ bằng những hình dáng tam giác, bán nguyệt hay hình tròn là phong cách cấu trúc thường được ưa chuộng.

Điêu khắc
Các nhà điêu khắc Phục Hưng sáng tạo nhiều nhất là những tượng đứng và tượng bán thân. Trên các quảng trường thành phố là các tượng đài kỷ niệm thí dụ như các tượng kỵ sĩ. Mộ bia cho danh nhân trong và ngoài đạo liên kết tượng cùng với kiến trúc trở thành một tác phẩm nghệ thuật.

Các nhà điêu khắc Phục Hưng hướng về các tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Cổ đại khi sáng tác. Bức tượng được làm mô hình toàn diện, con người được biểu diễn khỏa thân, tư thế hai chân thường là theo kiểu Contrapposto cổ điển. Các nghiên cứu về giải phẫu học được dùng để mô tả lại cơ thể con người giống như trong thực tế.

Kiến trúc

Về nguyên tắc có thể phân biệt hai xu hướng khác nhau trong kiến trúc Phục Hưng. Một xu hướng hồi sinh các đường nét thời kỳ Cổ đại một cách nghiêm khắc. Tại Ý, Donato Bramante đã đạt đến mục tiêu này trong đỉnh cao của thời kỳ Phục Hưng vào khoảng năm 1500 và từ đó chiếm lĩnh ưu thế trong kiến trúc trên toàn nước Ý. Các công trình xây dựng Phục Hưng ở Ý được phác thảo trong sáng và hài hòa cân đối. Trong sơ đồ mặt bằng các kiến trúc sư hướng về các hình dáng đơn giản lý tưởng trong hình học như hình vuông hay hình tròn. Các chi tiết kiến trúc như cột, trụ bổ tường, đầu cột, đầu hồi tam giác,... đều trực tiếp dựa vào kiểu mẫu thời Cổ đại. Bên cạnh đó là các phát triển mới dẫn xuất từ khuôn mẫu của thời kỳ Cổ đại. Tất cả các phần xây dựng riêng lẻ đều phải được hòa hợp với nhau và với toàn bộ tòa nhà. Các luận thuyết kiến trúc của nhà xây dựng nổi tiếng người La Mã Vitruvius được tham khảo để tìm ra những tỷ lệ tương quan lý tưởng.

Xu hướng thứ hai tuy cũng dựa vào thời kỳ Cổ đại nhưng biến đổi hình dáng các yếu tố xây dựng tương tự như nghệ thuật xây dựng thời Trung cổ, không vươn đến một nghệ thuật xây dựng theo các định luật một cách nghiêm ngặt.

Nói chung khi nền văn hóa càng bám rễ sâu trong thời Trung cổ mang dấu ấn của miền Bắc châu Âu thì phong cách kiến trúc tương tự của Phục Hưng càng mạnh, tức là trước tiên là ở vùng Trung Âu và Bắc Âu. Trên bán đảo Iberia hai xu hướng này tồn tại bên cạnh nhau cho đến thời kỳ Baroque. Tại vùng châu Âu của Đức và Ba Lan hai xu hướng này được trộn lẫn một phần (thí dụ như lâu đài Heidelberg (Đức) hay lâu đài tại Wawel, Kraków (Ba Lan), thế nhưng xu hướng tương tự vẫn chiếm ưu thế cho đến thời gian cuối.
Trả lời với trích dẫn


  #4  
Cũ 30-07-2012, 10:29 AM
quan_huynh74 quan_huynh74 đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 165
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Các nghệ sĩ nổi tiếng trong thời kỳ Phục Hưng


Leone Battista Alberti
Leone Battista Alberti (14 tháng 1, 1404 tại Genova - 25 tháng 4, 1472 tại Roma) là con trai của một gia đình quý tộc tại Firenze bị trục xuất khỏi quê hương từ năm 1358. Alberti được coi là một trong những người tạo dựng nên thời kì Phục hưng nói chung và kiến trúc Phục hưng nói riêng. Ông được coi là con người toàn diện nhất của thời kì tiền Phục Hưng (The universal Man of the Early Renaissance)

Alberti là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng về triết học, khoa học, văn học, luật học, ngôn ngữ học và nghệ thuật như "Bàn về gia đình" (De Familia), "Bàn về Nghệ thuật hội họa" (De pictura), "Bàn về Nghệ thuật điêu khắc" (De scupltura) và "Mười cuốn sách về nghệ thuật xây dựng" (De re aedificatoria)... được viết bằng tiếng Latinh. Ông là người phát minh là luật phối cảnh được sử dụng rộng rãi trong nghệ thuật và kiến trúc.

Tác phẩm "Mười cuốn sách về nghệ thuật xây dựng" được xem như nền tảng cơ bản của lí thuyết kiến trúc thời kì Phục hưng. Đó là cuốn sách thứ hai trong lịch sử kiến trúc châu Âu viết về lí thuyết kiến trúc, sau cuốn "Mười cuốn sách về kiến trúc" của Vitruvius.

Tác phẩm của Alberti

Lý thuyết
De re aedificatoria qua các bản dịch
Alberti, On the arts of building in ten books, MIT Press, 1991 (Bản dịch của Rykwert, Tavernor and Leach)
Alberti, L'art d'édifier, Édition du Seuil, 2004 (Bản dịch của Choay, Caye)

Công trình xây dựng
S. Andrea, Mantua, Ý
Sta. Maria Novella, Firenze, Ý

Leonardo da Vinci

Leonardo da Vinci (15 tháng 4, 1452 tại Anchiano, Ý - 2 tháng 5, 1519 tại Amboise, Pháp) là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và là một nhà triết học tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Tên thành phố Vinci, nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh Firenze, cách thành phố Firenze (tiếng Anh: Florence) 30 km về phía Tây, gần Empoli, cũng là họ của ông. Người ta gọi ông ngắn gọn là Leonardo vì da Vinci có nghĩa là "đến từ Vinci", không phải là họ thật của ông.

+Cuộc đời
_Xuất thân và thời niên thiếu
Leonardo là người con không có giá thú của công chứng viên Ser Piero (lúc bấy giờ 25 tuổi) và người con gái nông dân 22 tuổi Catarina. Quan hệ của Catarina với Ser Piero dường như chấm dứt ngay sau khi bà sinh người con trai. Sau đó ít lâu bà kết hôn với người chủ một lò gốm, Accattabriga di Piero del Vacca từ Vinci, và có thêm 5 người con.

Sau khi chia tay với Catarina, Ser Piero nhận nuôi dưỡng Leonardo. Ông kết hôn 4 lần, có thêm 9 người con trai và 2 người con gái với hai người vợ cuối của ông. Ser Piero là công chứng viên của nhiều gia đình danh tiếng trong thành phố và là người thành công trong nghề nghiệp. Thân chủ của ông bao gồm không những gia đình Medici mà còn gồm cả chính phủ thành phố (signoria) hay hội đồng quốc gia.

Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời thiếu niên tại thành phố Firenze (tiếng Anh: Florence). Trong số những đam mê của ông, Leonardo yêu thích nhất là âm nhạc, vẽ và tạo hình. Cha của Leonardo đưa một vài tranh vẽ của ông cho một người quen xem, Andrea del Verocchio, người ngay lập tức nhận ra được tài năng về nghệ thuật của Leonardo và được Ser Piero chọn làm thầy cho Leonardo.

Mặc dầu không phải là một tài năng phát minh hay sáng tạo lớn trong nghệ thuật đương thời ở Firenze nhưng Verrocchio cũng là là một nghệ nhân hàng đầu trong nghề kim hoàn, điêu khắc và trong hội họa. Đặc biệt ông là một người thầy tài năng. Leonardo làm việc nhiều năm (khoảng 1470-1477) trong xưởng vẽ của ông cùng với Lorenzo di Credi và Pietro Perugino.

Năm 1476 ông bị buộc tội cùng với 3 người đàn ông khác đã có quan hệ tình dục với một người đàn ông làm mẫu 17 tuổi, Jacopo Saltarelli, là một người đàn ông mại dâm được nhiều người biết. Sau 2 tháng trong tù ông được tuyên bố vô tội vì không có người làm chứng.

Chẳng bao lâu ông đã học hết tất cả những gì Verrocchio có thể dạy hay là còn nhiều hơn thế nữa, nếu như có thể tin vào những câu chuyện thường được kể lại về các hình ảnh hay tượng được cho là do những người học trò của Verrocchio sáng tác. Giorgio Vasari, kiến trúc sư, họa sĩ và cũng là một nhà tiên phong trong số những người biên niên sử nghệ thuật cùng thời với Leonardo cũng đã tường thuật tương tự.

Bức tranh Rửa tội Christi do Verrocchio phác thảo cho các nhà tu của Vallombrosa hiện có thể được xem tại Viện hàn lâm Firenze. Theo Vasari thì thiên thần quỳ bên trái là do Leonardo thêm vào. Khi Verrocchio nhìn thấy, ông đã nhận ra được tính nghệ thuật hơn hẳn so với phần còn lại của chính tác phẩm của ông và người ta kể rằng từ đấy ông tuyên bố vĩnh viễn từ bỏ hội họa. Bức tranh được vẽ nguyên thủy bằng màu keo (tempera) này đã bị vẽ dầu chồng lên nhiều lần nên việc kết luận có sơ sở hiện nay là rất khó khăn. Một số ý kiến đáng tin cậy thiên về việc công nhận không những có bàn tay của Leonardo trên khuôn mặt của thiên thần mà còn trong nhiều phần về y phục và phong cảnh phía sau mang tính đặc trưng và có thể nhận thấy được trong các tác phẩm khác của ông. Tác phẩm này được hoàn thành vào khoảng năm 1470, khi Leonardo 18 tuổi.

Vào khoảng năm 1472 tên của ông có trong danh sách của phường hội họa sĩ thành phố Firenze. Ông sống và làm việc tại đây thêm 10 hay 11 năm và cho đến năm 1477 vẫn còn được gọi là học trò của Verrocchio. Thế nhưng trong năm này dường như ông đã được Lorenzo de Medici nâng đỡ và làm việc như là một nghệ sĩ độc lập dưới sự bảo trợ của Lorenzo de Medici từ 1482 cho đến 1483.

Thông qua lời giới thiệu của Lorenzo de Medici cho công tước Ludovico Sforza, người muốn đặt một tượng đài kỵ sĩ tôn vinh Francesco I Sforza, người khởi đầu cho triều đại Sforza tại Milano, Leonardo rời Firenze đến Milano vào khoảng năm 1483.

Một trong những bức tranh đầu tiên của Leonardo: Thánh mẫu Benois (1478)
_Milano
Bằng chứng đầu tiên được ghi lại cho thời gian làm việc của Leonardo tại Milano được xác định là năm 1487. Một vài nhà viết tiểu sử phỏng đoán là thời gian từ 1483 đến 1487 hay ít nhất là một phần của thời gian này được dùng cho những chuyến đi du lịch phương Đông, thế nhưng từ tất cả những người cùng thời với Leonardo đều không để lại một dấu vết nào về chuyến đi của Leonardo về phương Đông.

Trong những năm đầu tiên sau khi tiếm quyền, Ludovico bị tấn công dữ dội, đặc biệt là từ những người theo phái của chị dâu của ông, Bona của Savoie, mẹ của công tước trẻ tuổi Gian Galeazzo Sforza, người cầm quyền chính thống. Để chống lại những tấn công này, Ludovico đã dùng hằng loạt thi sĩ và nghệ sĩ thông qua các diễn văn công cộng, kịch nghệ, hình ảnh và khẩu hiệu để ca ngợi sự sáng suốt và tính tốt đẹp của sự giám hộ đồng thời truyền bá tính xấu xa của những người chống lại ông. Các ghi chép và dự án trong những bản viết tay của Leonardo là bằng chứng cho thấy ông cũng thuộc về số người nghệ sĩ này. Nhiều bức vẽ phác thảo như vậy hiện nay đang nằm trong Christ Church tại Oxford, một bức phác thảo vẽ một nữ phù thủy có sừng hay nữ quỷ đang xua chó tấn công Milano. Bức phác thảo này gần như chắc chắn ám chỉ việc người của nữ công tước Bona ám sát Ludovico không thành vào năm 1484.

Dịch hạch tại Milano trong thời gian 1484-1485 là dịp cho Leonardo trình nhiều dự án của ông lên Ludovico nhằm chia lại thành phố và tái xây dựng theo các nguyên tắc vệ sinh tốt hơn. Thời gian 1485-1486 dường như cũng là thời gian khởi đầu cho kế hoạch làm đẹp và củng cố pháo đài của ông, mặc dầu không được toại nguyện. Sau đó là các kế hoạch và mô hình của ông trong dịp thi đua được công bố giữa các kiến trúc sư người Ý và người Đức để hoàn thành nhà thờ lớn của Milano. Văn kiện trả tiền cho ông vẫn còn tồn tại nằm trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1487 đến tháng 5 năm 1490. Cuối cùng thì không một dự án nào được tiến hành.


Bữa ăn tối cuối cùngBức tượng kỵ sĩ cao 7 mét, nhiệm vụ chính của Leonardo khi đến Milano được hoàn thành vào cuối năm 1493, vào lúc người do hoàng đế Maximilian I cử đến hộ tống cô dâu Bianca Maria Sforza về làm lễ cưới. Theo tường thuật thời bấy giờ thì đây là một công trình vĩ đại, nhưng các tường thuật này lại thiếu chính xác đến mức không thể kết luận được là tượng đài này phù hợp với phác thảo nào trong số nhiều bản vẽ phác thảo còn tồn tại cho đến ngày nay.

Trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1497 Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông, bức bích họa Bữa ăn tối cuối cùng trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie, theo yêu cầu của Ludovico Sforza. Năm 1980 nhà thờ cùng với bức tranh đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Vua Louis XII của Pháp, sau khi chiếm được Milano, đã đích thân đến tận nhà thờ để chiêm ngưỡng bức tranh và đã hỏi là có thể tháo gỡ ra khỏi tường nhằm mang về Pháp. Hai tháng sau khi vua Louis XII chiếm Milano, trong tháng 12 năm 1499, Leonardo cùng người bạn là Luca Pacioli rời thành phố Milano.

Leonardo và Luca Pacioli dừng chân tại Mantua, nơi Leonardo được nữ công tước Isabella Gonzage tiếp đón nồng hậu. Khi nghe tin Ludovico kết cuộc đã bị lật đổ, hai người bạn từ bỏ kế hoạch trở về Milano và tiếp tục đi đến Firenze, thành phố đang bị sức ép từ nhiều vấn đề nội bộ và từ cuộc chiến tranh chống lại Pisa không có kết quả. Tại đây Leonardo nhận vẽ một bức tranh thờ cho nhà thờ Annunziata. Filippino Lippi, người thật ra đã nhận lời yêu cầu vẽ, đã nhường lại cho Leonardo. Mãi đến tháng 4 năm 1501 Leonardo mới hoàn thành bản phác thảo trên giấy. Mặc dù nhận được nhiều lời khen ngợi cho bản vẽ trên giấy, Leonardo đã không hoàn thành bức tranh này và các tu sĩ Annunziata cuối cùng lại phải chuyển lời yêu cầu đến Filippino Lippi.

Trong mùa xuân năm 1502 ông bất ngờ về làm việc cho công tước Cesare Borgias. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1502 cho đến tháng 3 năm 1503 Leonardo, với tư cách là kĩ sư quân sự có quyền cao nhất, đã đi du hành qua một phần lớn miền trung nước Ý. Hai tháng sau khi Vito Luzza, một người dưới quyền của Cesare và là bạn của Leonardo, bị Cesare giết chết, Leonardo trở về Firenze. Ông đã để lại rất nhiều ghi chú và bản vẽ có ghi ngày tháng cũng như 6 tấm bản đồ lớn do ông tự vẽ bao gồm các vùng đất Maremma, Toscana và Umbria.

Trở về Firenze, ông được ủy nhiệm vẽ một bức bích họa trang trí cho một trong những bức tường của đại sảnh nhà hội đồng thành phố. Michelangelo được trao nhiệm vụ vẽ một bức bích họa khác cũng trong cùng căn phòng. Ông hoàn thành phác thảo trên giấy trong vòng 2 năm (1504-1505) nhưng do có nhiều khó khăn về kĩ thuật trong lúc vẽ trên tường nên bức bích họa không được hoàn thành.

Trong thời gian này (1503-1506), theo một số nguồn khác là 1510-1515, Leonardo hoàn thành bức họa Mona Lisa (hay còn gọi là La Gioconda) mà theo Vasari thì đây là bức chân dung của Lisa del Giocondo, vợ của một người buôn bán tơ lụa tại Firenze. Lúc đương thời Leonardo đã không thể rời bức tranh, ông mang bức họa này đi theo trên khắp các chặn đường đời sau đó. Sau khi Leonardo qua đời, vua nước Pháp François I đã mua bức tranh này với giá là 4.000 đồng Florin vàng. Người ta nói là cho đến ngày nay chưa có ai có thể sao chép lại được nụ cười của Mona Lisa.

Trong mùa xuân 1506, Leonardo chấp nhận lời mời khẩn thiết của Charles d'Amboise, thống đốc vùng Lombardia của vua Pháp, trở về lại Milano. Vua Pháp Louis XII gửi tin yêu cầu Leonardo hãy đợi ông đến Milano vì ông đã xem được một bức tranh Đức Mẹ nhỏ của Leonardo ở Pháp và hy vọng sẽ nhận được từ Leonardo các tác phẩm như vậy và ngoài ra có thể là một bức chân dung.


Hình vẽ của Leonardo: Một bào thai trong tử cung, khoảng 1510-1512Tháng 9 cùng năm ông phải trở về Firenze vì việc riêng tư không vui. Cha Leonardo qua đời vào năm 1504 dường như không để lại di chúc. Sau đó Leonardo đã có tranh tụng với 7 người em trai cùng cha khác mẹ về việc thừa kế gia tài của cha ông và sau đó là của một người chú bác. Việc kiện tụng kéo dài nhiều năm và bắt buộc Leonardo phải nhiều lần tạm ngưng công việc ở Milano để về Firenze, mặc dù đã có nhiều thư của Charles d'Ambois, vua Louis XII, của những người thân quen và đỡ đầu có thế lực khác để thúc đẩy sớm kết thúc việc kiện tụng này. Trong một bức thư gửi Charles d'Amboise vào năm 1511, Leonardo đã nhắc đến việc kiện tụng sẽ sắp chấm dứt và viết về hai bức tranh Đức Mẹ mà ông sẽ mang về Milano. Người ta tin rằng một trong 2 bức tranh đó là bức Madonna Litta mà hiện nay một bản sao được trưng bày trong Viện bảo tàng Hermitage (Cung điện mùa Đông).

Vào tháng 5 năm 1507 vua Louis XII đến Milano và Leonardo chính thức chuyển sang phục vụ cho Louis XII với chức danh là họa sĩ triều đình và kĩ sư. Theo những ghi chép còn tồn tại, trong thời gian 7 năm Leonardo ở tại Milano (1506-1513) ông làm việc rất ít trong lãnh vực hội họa và kiến trúc. Ông đã cùng nghiên cứu về giải phẫu học với giáo sư Marcantonio della Torre. Bức chân dung tự họa bằng phấn đỏ hiện đang ở trong Biblioteca Reale tại Torino có thể được vẽ vào khoảng thời gian này khi ông gần 60 tuổi.

Roma
Tháng 6 năm 1512 triều đại Sforza trở lại nắm quyền lực ở Milano. Chỉ trong vòng vài tháng sau đó Leonardo và các học trò của ông rời Milano đi đến Roma phục vụ cho gia đình Medici. Nhờ ảnh hưởng của Giuliano de Medici, một người bạn của Leonardo và là người em trai trẻ tuổi nhất của giáo hoàng, Leonardo được cư ngụ trong tòa thánh Vatican và có một xưởng vẽ riêng. Theo các nguồn tài liệu đáng tin cậy còn tồn tại trong thời gian này Leonardo chỉ vẽ hai bức tranh panel nhỏ cho một viên chức trong tòa thánh. Qua nhiều công trình nghiên cứu về giải phẫu học Leonardo đã khám phá ra chứng xơ cứng động mạch ở người già. Thế nhưng các ghi chép của ông về đề tài này chưa từng được công bố và đã mất tích hằng trăm năm trước khi tái xuất hiện. Sau khi ở tại Roma gần 2 năm Leonardo chấp nhận lời mời của vua Franz I đi đến nước Pháp.

Pháp
Trong thời gian hơn 2 năm còn lại của cuộc đời Leonardo sống trong lâu đài Clos Lucé gần Amboise. Ông đã vẽ nhiều bức tranh như Leda và thiên nga (hiện chỉ còn lại bản sao), phiên bản thứ hai của bức tranh Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Leonardo mất ngày 2 tháng 5 năm 1519.
+Một số tác phẩm.
Báo tin mừng (1475-1480)
Thánh mẫu Benois (1478-1480)
Đức mẹ đồng trinh trong hang đá (1483-86)
Người đàn bà và con chồn (1488-90)
Chân dung một nhạc sĩ (khoảng 1490)
Madonna Litta (1490-1491)
Bửa ăn tối cuối cùng (1498)
Mona Lisa (1503-1505/1507)
Leda và thiên nga (1508)
St. John the Baptist (khoảng 1514)
Trả lời với trích dẫn


  #5  
Cũ 30-07-2012, 10:29 AM
inexim-iec inexim-iec đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 164
Mặc định

Albrecht Dürer

Albrecht Dürer hay Albrecht Duerer, còn được viết là Albrecht Durer, sinh ngày 21 tháng 5 năm 1471 tại Nürnberg (Đức), mất ngày 6 tháng 4 năm 1528 tại Nürnberg (Đức), là một họa sĩ, một nhà đồ họa và một lý thuyết gia về nghệ thuật nổi tiếng ở châu Âu. Dürer là một nhà nghệ thuật lớn trong thời kỳ của Chủ nghĩa nhân đạo (tiếng Anh: humanism) và Phong trào cải cách.

Cuộc đời
_Tuổi thơ cho đến khi tự lập 1497

Ngôi nhà của Albrecht DürerCha của Albrecht Dürer, cũng có tên là Albrecht, được gọi là Albercht Dürer der Ältere (Albrecht Dürer Già), đến Nürnberg từ nước Hunggary vào năm 1455 và làm nghề thợ kim hoàn tại đây. Năm 1467 ông cưới Barbara Holper, con gái của người thợ cả của ông ở Nürnberg. Trong số 18 người con của cuộc hôn nhân này Albrecht Dürer là người con thứ ba được sinh vào ngày 21 tháng 5 năm 1471.

Ngay từ thời còn trẻ ông đã phải theo cha vào xưởng để học nghề thợ kim hoàn. Bức tự họa bán thân mà ông vẽ trên giấy da (parchment) vào năm 1484 và tranh Đức mẹ Maria với hai thiên thần vào năm 1485 là xuất phát từ thời gian này.

Từ cuối năm 1486 cho đến năm 1490 ông học và làm việc cho họa sĩ Michael Wolgemut tại Nürberg. Theo nhiều dấu hiệu thì Dürer đã tham gia vào công việc phát thảo quyển "Sử biên niên thế giới Schedel" (phát hành năm 1493). Ngoài ra Dürer cũng đã học hỏi ở các nhà khắc kim loại thời bấy giờ (như Martin Schongauer).

Từ năm 1490 đến năm 1494 Dürer đi chu du qua vùng lưu vực sông Rhein. Hành trình của chuyến đi chu du đầu tiên trong 3 chuyến đi xa của ông không được biết chính xác. Có thể ông đã đến Hà Lan hay trung lưu sông Rhein trước khi ông về đến vùng Elsaß (tiếng Pháp: Alsace) vào năm 1492, ở nơi mà ông không kịp gặp gỡ Martin Schongauer đã qua đời vào ngày 2 tháng 2 năm 1491 tại Colmar. Sau đấy ông đi về Basel (Thụy Sĩ).

Năm 1494 ông cưới Agnes Frey, con gái của một gia đình khá giả ở Nürnberg. Trong thời gian sau đó cho đến 1500 ông đã sáng tác một loạt tranh phong cảnh vẽ màu nước nhỏ với các đề tài ở Nürnberg hay hình ảnh từ những chặn đường trong chuyến đi Venezia (Ý) bắt đầu vào tháng 10 năm 1494. Tháng 5 năm 1495 ông trở về lại Nürnberg.


Ngôi nhà của Albrecht Dürer
_Từ 1497 đến 1505
Năm 1497 ông bắt đầu tự lập. Trong thời kỳ đầu tiên của cuộc đời nghệ sĩ ông sáng tác chủ yếu là các bức họa chân dung: chân dung cha của ông (1497), bức chân dung tự họa (1498), chân dung thương gia Oswald Krell từ Lindau (Đức) (1499), chân dung tự họa (1500), chân dung của Friedrich Khôn ngoan (1494/1497).

Thế nhưng thời gian chính ông dành cho công việc khắc kim loại và vẽ đồ họa cho khắc gỗ. Đặc biệt là ông đã thử nghiệm khắc kim loại rất sớm. Bản khắc đầu tiên xác định được niên đại là vào năm 1497. Ngoài ra trong khoảng thời gian này (1498) còn có các tác phẩm: "Khải Huyền của Gioan" (tiếng Anh: Book of Revelation), là một bộ khắc gỗ gồm 16 bản và "Adam và Eva" (1502) là một tác phẩm khắc đồng.

_Chuyến đi Venezia

Lễ Mân Côi, 1506Năm 1505 ông đến Venezia lần thứ hai, nơi của những nhà họa sĩ thời kỳ Phục hưng nổi tiếng của trường phái Venezia: Tizan, Giorgione và Palmavecchio. Nhưng người gây ấn tượng nhiều nhất cho ông là Giovanni Bellini, người mà trong một bức thư ông đã ca tụng là "họa sĩ giỏi nhất".

Các thương gia người Đức ở Venezia đã đặt ông vẽ cho Nhà thờ thánh Barttholomew một bức tranh lớn, "Lễ Mân Côi" (tiếng Anh: Feast of the Most Holy Rosary), bức tranh mà sau này Hoàng đế Rudolf II đã mua lại với một số tiền lớn và dùng 4 người để mang về Praha (Cộng hòa Séc). Mặc dù các tác phẩm được đánh giá cao và Hội đồng thành phố Venezia đã mời ông ở lại thành phố lâu dài với tiền lương hằng năm là 200 đồng Duca, Dürer quyết định trở về lại thành phố quê hương trong mùa thu năm 1506.

Từ 1506 đến 1520

Adam và Eva, 1507
Thăng thiên và Đăng quang Maria, 1508/1509 Bức tranh giữa là bản sao
Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của các thánh, 1509/1516Trong số các tác phẩm đầu tiên của Dürer sau khi ông trở về từ Ý phải kể đến "Chân dung một người đàn ông trẻ" (1507) hiện lưu trữ trong Viện bảo tàng Lịch sử nghệ thuật (Kunsthistorische Museum) ở Wien (Áo). Cũng cùng trong năm này ông vẽ bức tranh khỏa thân "Adam và Eva". Trong hai năm 1507 và 1508 ông vẽ bức tranh do Tuyển hầu tước Friedrich Khôn ngoan đặt vẽ cho nhà thờ ở Wittenberg (Đức), hiện nay cũng trong Viện bảo tàng Lịch sử nghệ thuật tại Wien.

Sau đó Dürer bắt đầu tác phẩm nổi tiếng "Thăng thiên và Đăng quang Maria" mà nhà quý tộc Jakob Heller ở Frankfurt am Main (Đức) đã đặt ông vẽ cho Nhà thờ dòng Dominican (tiếng La tinh: Ordo Praedicatorum) tại Frankfurt am Main. Tác phẩm này đã mang lại cho nhà thờ một nguồn thu nhập lớn khi các người xem tranh phải chi tiền vào cửa. Sau khi Hoàng đế Rudolf II không mua lại được mặc dầu đã ngỏ ý muốn trả số tiền là 100.000 Gulden, bức tranh này được Công tước Maximilian I của Bayern mua lại với giá 1.000 Thaler vào năm 1613. Trong vụ cháy lớn ở lâu đài München vào năm 1673 bức tranh này đã bị hư hại một phần. Một bản sao của Paul Juvenel hiện đang ở trong lâu đài Saalhof thuộc Viện Bảo tàng Lịch sử tại Frankfurt am Main bên cạnh hai bức tranh cánh vẫn còn giữ được.

Trong khoảng thời gian 1509 đến 1516 (có thể là 1511) ông sáng tác bức họa nổi tiếng trên gỗ "Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của các thánh", xuất phát là cho nhà nguyện ở Landau (Đức) nhưng sau đó (khoảng 1600) được Hội đồng Nürnberg tặng cho Hoàng đế Rudolf II. Ở phía dưới của bức tranh Dürer đã tự vẽ mình là một nhân vật nhỏ cầm một tấm bảng mang dòng chữ tiếng La tinh. Hiện nay bức tranh này được trưng bày trong Viện bảo tàng Lịch sử nghệ thuật ở Wien.

Cũng trong khoảng thời gian này, ngoài nhiều tác phẩm khắc gỗ và khắc kim loại nhỏ, Dürer đã sáng tác ba loạt tranh khắc gỗ thuộc vào trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông:

"Nỗi khổ hình của Giê-xu nhỏ" (1509 và 1510), nguyên thủy gồm 37 bản khắc gỗ
"Nỗi khổ hình của Giê-xu lớn" (1510) bao gồm 11 bản vẽ về cuộc đời của Chúa cứu thế và một tranh bìa, diễn đạt và khổ của bản khác với loại nhỏ.
"Cuộc đời của Maria" (1510 và 1511) bao gồm 20 bản.
Bắt đầu từ thời gian này các tác phẩm của Dürer chủ yếu là khắc gỗ và khắc kim loại, rất ít tranh vẽ. Các bản khắc kim loại nổi tiếng của ông cũng đều là từ khoảng thời gian này: "Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ", "Thánh Jerome" (1514) và "Melencolia I" (1514).

Dürer đã nhiều lần vẽ theo yêu cầu của Hoàng đế Maximilian I. Chậm nhất là từ khoảng thời gian 1510/1511 đã có những mối quan hệ mà có thể là do Willibald Pirckheimer môi giới. Tất cả các tác phẩm này ít nhất cũng là gián tiếp tôn vinh danh dự và vinh quang Hoàng đế.

Đây cũng là thời gian mà ông tiếp xúc với các tác phẩm của Martin Luther, "người đã giúp đở tôi rất nhiều".

Thăng thiên và Đăng quang Maria, 1508/1509 Bức tranh giữa là bản sao
_Chuyến đi Hà Lan (1520-1521)
Ngày 12 tháng 6 năm 1520 Dürer cùng vợ khởi hành qua Bamberg, Frankfurt, Köln đi đến Antwerpen và các thành phố Hà Lan khác, chuyến đi kéo dài cho đến mùa thu năm sau đó.

Ở mọi nơi ông đều được chào mừng nồng nhiệt. Hội đồng thành phố Antwerpen đã không thể mời ông cư ngụ lâu dài tại thành phố này với tiền lương hằng năm là 300 Gulden, tặng ông một căn nhà, sinh sống miễn phí và trả tiền cho tất cả các công việc làm cho chính quyền của ông. Hoàng đế Karl V vừa lên ngôi công nhận các đặc quyền ông được hưởng trước đó (đây thật ra là mục đích chính của chuyến đi này). Rất nhiều tác phẩm chân dung của các giáo sĩ, nhà quý tộc và nhà nghệ thuật là kết quả của chuyến đi Hà Lan. Ngày 2 tháng 7 năm 1521 ông bắt đầu trở về.

Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của các thánh, 1509/1516
_Những năm sau đó
Hai trong số những tác phẩm quan trọng nhất của ông được sáng tác vào năm 1526: Hai sứ đồ Gioan và Phê-rô và Hai sứ đồ Mác-cô và Phao-lô. Cũng trong năm này ông vẽ bức tranh sơn dầu chân dung "Hieronymus Holzschuher" được coi là tác phẩm vẽ chân dung đẹp nhất của ông.

Chịu đựng hậu quả của bệnh sốt rét từ chuyến đi Hà Lan, Dürer mất đột ngột vào ngày 6 tháng 4 năm 1528, ngay trước khi ông tròn 57 tuổi. Mộ phần của ông hiện nay nằm trong nghĩa trang Johannis tại Nürnberg, không xa mộ phần của người bạn ông là Willibald Pirchheimer.

_Các đóng góp trong lịch sử nghệ thuật

Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ, 1513Dürer đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển khắc gỗ và khắc kim loại. Ông đã giải phóng kỹ thuật khắc gỗ ra khỏi "nhiệm vụ minh họa sách" và mang lại cho kỹ thuật này tầm cỡ của một tác phẩm nghệ thuật độc lập có thể đặt bên cạnh tranh vẽ. Dürer tạo được một thang tông màu rộng lớn giữa đen và trắng và vì thế đưa khắc gỗ đến gần khắc kim loại.

Cũng như cho khắc gỗ ông đã cách mạnh hóa và làm hoàn hảo kỹ thuật khắc kim loại. Ông nổi tiếng khắp châu Âu qua các tác phẩm như "Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ" và "Melencolia I". Giống như Tizian, Michelangelo và Raffael, Dürer nhận ra được ý nghĩa của kỹ thuật đồ họa là dùng để truyền bá tiếng tăm nghệ thuật và thông qua việc bán các tác phẩm để có thu nhập. Dürer đã phát hành các tác phẩm của mình bằng nhà xuất bản riêng của ông và thông qua các nhà bán sách.

Bên cạnh sáng tác nghệ thuật Dürer cũng viết nhiều tác phẩm về lý thuyết trong nghệ thuật. Ngoài ra ông còn nghiên cứu về cách xây thành lũy. Bức tường thành Ulm (Đức) được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 16 là theo bản vẽ của ông.

Một số tác phẩm

Elsbeth Tucher, 1499
Chết vì đạo, 1507
Tranh đồ họa
Nỗi khổ hình của Giê-xu lớn và Khải Huyền 1496–1498 Loạt tranh khắc gỗ
Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ, 1513, khắc kim loại
Thánh Jerome, 1541, khắc kim loại

Melencolia I, 1514, khắc kim loại

Tranh vẽ
Chân dung Albrecht Dürer der Ältere, 1490

Chân dung tự họa, 1500

Tôn vinh của các vua, 1504

Đức mẹ và chim sẻ, 1506

Chân dung Hoàng đế Maximilian I, 1519

Hl. Hieronymus, 1521

_Tranh màu nước
Hồ trong rừng, 1495]

Thung lũng ở Kalchreuth, 1500

Thỏ con, 1502
Trả lời với trích dẫn


  #6  
Cũ 30-07-2012, 10:29 AM
ptchien ptchien đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 204
Mặc định

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Niccolo Machiavelli (1469 - 1527) và tác phẩm Quân Vương (The Prince)

1/ Phong trào Phục Hưng tại nước Ý.

Ngày 25 tháng 3 năm 1436, dân chúng miền Florence hân hoan đón mừng buổi lễ khánh thành ngôi giáo đường được đặt tên là Santa Maria del Fiore, hay Nữ Thánh Mary của loài Hoa. Việc xây dựng ngôi nhà thờ này được bắt đầu vào cuối thế kỷ 13 và công tác đã kéo dài cho tới ngày hôm nay. Cả thành phố Florence đã hãnh diện về kiến trúc rực rỡ này. Đi dọc theo đường phố hai bên có treo cờ xí đủ màu là đoàn diễn hành gồm các nhạc công dẫn đầu, với quần áo sặc sỡ, với tiếng đàn hát có âm điệu tuyệt vời khiến cho người dân tưởng chừng như nghe được những âm thanh của các thiên thần ở trên tầng cao. Trong đoàn diễn hành còn có các nhạc sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, các chính khách rồi tới vị Giáo Hoàng trong áo choàng trắng và vương niệm, 7 vị hồng y với áo gấm đỏ, 37 vị tổng giám mục trong y phục màu tím rồi sau cùng là các viên chức thành phố và các lãnh tụ nghiệp đoàn. Ngôi giáo đường mới Santa Maria del Fiore là một biểu tượng mới về uy tín của thành phố Florence.

Florence quả thực rất rực rỡ cũng như một số thành phố khác nằm tại miền bắc nước Ý. Những nơi này đã phát triển rất nhanh nhờ vào kỹ nnghệ và mậu dịch, rồi nhờ vào các tài sản kiếm được do hai phạm vi kể trên, các bộ môn học thuật khác cũng đổi mới: văn chương, nghệ thuật, kiến trúc... Một nền văn hóa mới đã thành hình tại các thành phố của nước Ý vào hai thế kỷ 14 và 15. Loại văn hóa mơiù này được gọi là phong trào “Phục Hưng“ (Renaissance) theo danh từ tiếng Pháp là “sống lại“. Các ý tưởng mới, các sáng tạo mới của phong trào Phục Hưng đã tỏa rộng khắp nơi, lan tới các xứ sở khác của châu Âu.

Phong trào Phục Hưng không nằm trong phạm vi tôn giáo, mà là một phong trào thế tục qua đó nhiều học giả đã quan tâm tới văn chương, nghệ thuật, khoa học... họï xét lại các tư tưởng cổ điển của thời Cổ Hy Lạp và La Mã với nền văn hóa chú trọng tới cá nhân con người và đời sống của con người trên mặt đất. Các nhà tư tưởng của thời kỳ này tin rằng con người có thể cải thiện qua học hỏi và sau đó xã hội có thể trở nên hoàn hảo.

Nền văn hóa Phục Hưng như vậy đã được sinh ra tại một nơi đặc biệt, vào một thời điểm đặc biệt. Có nhiều lý do làm nẩy sinh sự phát triển này. Một trong các lý do quan trọng là nền mậu dịch đang bành trướng tại các thành phố của nước Ý. Vào giữa thế kỷ 14, phần lớn các con đường mậu dịch đều gặp nhau tại phần phía đông của Địa Trung Hải. Các nhà buôn người Ý đã mua hàng hóa tại vùng biển này, với các mặt hàng có giá trị tại châu Âu vào thời bấy giờù là tiêu, gừng, quế, thảm dệt... và nữ trang, sau đó bán lại tại các hải cảng của miền bắc nước Ý rồi từ những nơi này, hàng hóa được chuyên chở qua rặng núi Alps, tới các xứ Bắc Âu, hay bằng đường biển để đến các miền tây của châu Âu.

Đóng góp vào việc giàu có do nền mậu dịch mang lại là cấu trúc chính trị của miền bắc nước Ý. Miền này được chia thành các quốc gia-thành phố (city-state) với lãnh thổ riêng, chủ quyền riêng. Nền mậu dịch đã mang lại sự giàu sang cho các thành phố Venice, Florence, Milan và Genoa. Mạnh nhất trong 4 thành phố này là Venice, nơi được gọi là “Nữ Hoàng của vùng biển Adriatic“. Venice nằm tại trung tâm của các con đường mậu dịch đông tây. Vào thế kỷ 15, các thương gia Venetian đã có đội thương thuyền gồm 3.000 chiếc và chính quyền của thành phố đã kiểm soát phần lớn nền mậu dịch của hai miền Adriatic và Địa Trung Hải.

Kế tiếp thành phố Venice là Florence, nơi có các hoạt động kỹ nghệ và ngân hàng. Vào năm 1500, Florence là thành phố rộng lớn thứ 5 của châu Âu, với dân số 130.000 người và trong số này, có lẽ 3.000 dân đã làm việc trong kỹ nghệ vải sợi, loại mặt hàng được trao đổi khắp châu Âu. Florence còn nổi danh vì nghệ thuật, và nhiều hoạt động sáng tạo đã được trợ giúp tại nơi này.


2/ Chế độ tư bản xuất hiện.
Nền văn hóa Phục Hưng phát triển được là nhờ những tài sản tích lũy tại các thành phố của miền bắc nước Ý. Do các phương pháp thương mại mới, tiền bạc đã đổ về đây khiến cho đã ra đời chế độ tư bản. Chế độ tư bản có thể được định nghĩa là một hệ thống kinh tế trong đó các cá nhân và các công ty - chứ không phải là chính quyền - sở hữu các thương mại. Mục đích của các nhà tư bản là làm ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt rồi sau đó, lại đầu tư tiền bạc vào các thương mại để làm thêm ra các lợi nhuận khác. Một trong các hình thức mới của cách khai thác tư bản là ngành ngân hàng (banking).

Vào hai thế kỷ 14 và 15, các nhà buôn của châu Âu đã trở nên giàu có, họ tìm cách bảo vệ tiền bạc của họ, mượn thêm tiền và đầu tư vào các công việc làm ăn. Do địa điểm thuận tiện đối với các công cuộc mậu dịch, nhiều người Ý đã trở nên chủ ngân hàng đầu tiên và ngành ngân hàng là một kỹ nghệ chính của nước Ý trong hai thế kỷ này. Chính nhờ các giấy tờ, chứng thư của ngân hàng, hàng hóa được nhận tại một nơi này, trả tiền tại một nơi khác. Nhiều loại tín dụng đã được thực hiện rồi trở nên rất phổ thông. Đã có các gia đình có tư bản lớn cho nhiều giới vay tiền với lãi suất cao: thương nhân, quý tộc, vua chúa.

Trong số các gia đình tư bản này, đáng kể là giòng họ Medici của miền Florence. Gia đình này đã làm chủ các nhà máy sản xuất lụa và len, điều hành tiền bạc cho Giáo Hoàng và sở hữu một hệ thống ngân hàng lớn nhất châu Âu. Gia đình này cũng cai trị thành phố Florence trong thời kỳ Phục Hưng. Với tính cách hoạt động ban đầu như vậy, chế độ tư bản đã phát triển thành một hệ thống kinh tế chính của châu Âu.

Từ khi được xuất bản vào năm 1513, tác phẩm Quân Vương đã được nhiều người nghiên cứu kỹ càng và tranh luận. Một số người đã cho rằng Machiavelli đã vô luân (immoral) khi không chú trọng đến tôn giáo và các tiêu chuẩn đạo đức của hành vi con người. Một số khác lại khen ngợi Machiavelli đã khéo léo cứu xét người đời, tại sao họ đã hành xử, tại sao họ thiếu đi một số đức tính. Theo ý Machiavelli, xứ sở phải tồn tại bằng mọi giá, điều mà một số nhà cai trị đã theo đuổi để xây dựng các quốc gia mạnh, đoàn kết. Sau đây là sơ lược vài tư tưởng của Niccolo Machiavelli:

“Nhu cầu quan trọng nhất của một quân vương là quyền lực. Vị quân vương phải theo các quy tắc thực tế để nắm giữ quyền lực này. Có hai cách duy trì quyền lực: luật pháp và sức mạnh. Cách thứ nhất thì tốt nhưng luôn luôn không đủ. Vị quân vương giỏi phải dùng cách thứ hai, cách của sức mạnh. Ông ta phải vừa là một con sư tử, vừa là một con cáo, phải đủ mạnh để làm run sợ các con chó sói và phải đủ khôn ngoan để nhận biết ra các cạm bẫy. Quân vương không cần giữ lời hứa nếu có điều gì chạm vào quyền lợi của ông ta. Phần lớn con người thì bất lương, vô ơn, lường gạt, nói dối, sợ nguy hiểm và tham lợi, cho nên tại sao vị quân vương phải lương thiện với họ.

Một quân vương nên để cho người dân yêu mến hay sợ hãi? Có thể ông ta cần cả hai. Nhưng nếu phải chọn một trong hai thì an toàn hơn là để cho người dân khiếp sợ. Tuy nhiên tôi cho rằng vị quân vương nên làm ra vẻ bác ái và trọng danh dự, vì dù sao phần lớn con người thường bị lường gạt bởi sự phô trương và tôi đồng ý rằng một quân vương không kiểm soát được mình thì giống như một kẻ điên, và không còn điều nghi ngờ về một chính quyền được điều hành bằng luật pháp “.

Niccolo Machiavelli đã bị hiểu lầm về lý thuyết của ông vì thực ra, ông là một người thực tế, hiểu rõ một số bản chất của con người. Các suy tưởng của Machiavelli về nhân loại đã khiến cho một số học giả coi ông là nhà sáng lập ra môn Triết Học của Lịch Sử./.

http://vietsciences.free.fr Phạm Văn Tuấn
*THEO NGUỒN VIETSCIENCES CỦA TÁC GIẢ PHẠM VĂN TUẤN.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 01:27 PM

Xây dựng bởi SangNhuong.com
© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.

Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay | Chợ rao vặt miễn phí SangNhuong.com | Chợ thông tin bất động sản lớn nhất Việt Nam