Ðăng nhập

View Full Version : Các Mác


dongthanhqn
30-07-2012, 10:27 AM
Tiểu sử Các Mác

C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường trung học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu, tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna.

Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen.

Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C. Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn.

Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử C. Mác

Công tác thực tiễn ở báo Rheinische Zeitung đã làm thay đổi cơ bản thế giới quan của C. Mác chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Tháng Hai 1844, trên tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức C. Mác đăng bài Góp phần phê phán triết học pháp luật của Hê- ghen. Từ tháng Tư - tháng Tám 1844, C. Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này C. Mác phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản. Tháng hai 1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết chung ra đời phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm , đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của C. Mác ở Pa-ri kết thúc (tháng Hai 1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà C. Mác tự đặt ra cho mình: đề xuất một học thuyết cách mạng mới. C. Mác cùng với Ph. Ăng- ghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845-1846) tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen và phái Hê-ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy tâm không nhất quán của Ludvich Phoiơbach. Trong cuốn Sự bần cùng của triết học (1847) C. Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của P.J. Pruđông và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản. Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản- một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa C. Mác và đảng vô sản. Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của C. Mác Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết Mác-xít về giá trị , cơ sở của học thuyết kinh tế của C. Mác.

C. Mác là người tổ chức và là lãnh đạo của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 tháng 9 1864, ở Luân- đôn. Năm 1867 bộ Tư bản (tập I)- tác phẩm chủ yếu của C. Mác ra đời. Tập II và III C. Mác không kịp hoàn tất, Ph. Ăng-ghen đảm nhận việc chuẩn bị xuất bản hai tập này. Trong bộ Tư bản C. Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hóa được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ.

Trong tác phẩm những năm cuối đời C. Mác nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pa-ri (Cuộc nội chiến ở Pháp- 1871).

Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gôta (1875) C. Mác đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp- chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao- chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876 sau khi Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán, C. Mác nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân

tai-viet
30-07-2012, 10:27 AM
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.

Được sự uỷ nhiệm của những người cộng sản, ngày 24 tháng 2 năm 1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo được công bố trước toàn thế giới.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ địa vị đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn là cương lĩnh chính trị của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là kim chỉ nam hành động của toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc.

I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm

Giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đạt tới trình độ phát triển: đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước châu Âu. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bước lên vũ đài đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ XIX, ở một số nước tư bản phát triển, giai cấp vô sản đã vùng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đòi thực hiện những yêu sách của mình cả về kinh tế lẫn chính trị. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào vô sản là những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyông (Pháp) năm 1837; cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào hiến chương ở Anh kéo dài 10 năm (1838 - 1848).

Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi một cách bức thiết phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1847, Đại hội lần thứ hai Liên đoàn những người cộng sản đã thảo luận và thông qua những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản do Mác và Ăng ghen trình bày. Trên cơ sở sự nhất trí ấy, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội ủy nhiệm thảo ra bản tuyên ngôn chính thức.

Việc công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng là thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác.

Lần đầu tiên trong lịch sử loài người thực hiện được cuộc cách mạng tư tưởng với đỉnh cao của trí tuệ khám phá và hệ thống hóa những quy luật vận động của giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Toàn bộ thành tựu trí tuệ của loài người được tổng kết, khái quát.

II. Tư tưởng chủ yếu và nội dung của tác phẩm

Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định rằng, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.

Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và Ăngghen trình bày rõ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

Nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày thành bốn chương. Ngoài ra, mỗi lần xuất bản, hai ông còn viết lời tựa để thuyết minh và làm rõ hơn nội dung tư tưởng của Tuyên ngôn (bổ sung nội dung Tuyên ngôn).

Chương I: Tư sản và vô sản

1. Sự phát triển của xã hội loài người:

Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp bóc lột.

Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch với nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.

2. Vị trí lịch sử của giai cấp tư sản

Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những công trường thủ công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ công trường thủ công đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là những nhà tư sản hiện đại.

Khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một vai trò hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất đang lên, giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp phong kiến quý tộc, giành địa vị thống trị.

Sau khi nắm được chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá hủy những quan hệ sản xuất phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập hệ thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chưa đầy một thế kỷ, giai cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.

Để đáp ứng yêu cầu của sản xuất và trao đổi, giai cấp tư sản đã thẳng tay xóa bỏ tình trạng cát cứ, phong kiến. Trên cơ sở đó, đưa đến sự tập trung về kinh tế chính trị, hình thành một quốc gia dân tộc thống nhất, phục vụ cho lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản thiết lập thị trường thế giới. Đồng thời, chúng buộc các dân tộc chậm phát triển phải du nhập cái gọi là văn minh tư sản, làm nảy nở nền văn hóa thế giới.

Giai cấp tư sản đã thiết lập nền dân chủ tư sản. Tuy là nền dân chủ cắt xén, nhưng so với chế độ quân chủ chuyên chế thì đó là một tiến bộ trong lịch sử.

Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy rõ loài người có khả năng làm được những gì.

Vốn có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hóa giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội ra làm hai phe thù địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đấu tranh nảy sinh ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời.

Giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản.

3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản

Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là điều mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.

Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân hóa, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng với sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong tất cả các giai cấp trong dân cư. Sự tiến bộ của đại công nghiệp còn đẩy từng bộ phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô sản, bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa, khi đấu tranh chống chế độ phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ của giai cấp vô sản, và do đó, đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc vận động chính trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp vô sản những yếu tố tri thức chính trị phổ thông, những vũ khí mà sau này giai cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại giai cấp tư sản.

Giai cấp vô sản không có tài sản, phải bán sức lao động cho tư sản, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường. Những người vô sản chẳng có cái gì là của mình để bảo vệ, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn bảo đảm và bảo vệ cho chế độ tư hữu.

Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, còn các giai cấp trung gian mang tính bảo thủ, hơn thế họ còn là phản động, tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Đoàn kết thống nhất là một thuộc tính cơ bản của giai cấp vô sản để đấu tranh chống giai cấp tư sản.

Giai cấp vô sản luôn bị áp bức cùng cực bởi giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã không đảm bảo cho giai cấp vô sản những điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho họ có thể sống được trong vòng nô lệ. Như vậy, có nghĩa là, sự tồn tại của giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó, “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Song, để bảo đảm bảo cho sự thắng lợi đó, giai cấp vô sản phải có những điều kiện đảm bảo cho công cuộc tự giải phóng mình. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ph.Ăngghen đã chỉ ra điều đó: “Chính do bản thân các sự biến và do những thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản - do những thất bại nhiều hơn là do những thành công - mà công nhân không thể không cảm thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tường tận những điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp công nhân”. Điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử.

Những cuộc đấu tranh đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức. Sự tổ chức như vậy thành chính Đảng. Sự tồn tại, phát triển của Đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản. Đảng kết thúc vai trò khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hoàn thành.

Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của mình giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng ngũ vô sản họ đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần tới giờ quyết định, giai cấp thống trị bị phân hóa, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp này đi theo giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ cuộc vận động. Thực tiễn đó đã khẳng định rằng, các tầng lớp trung gian và cả giai cấp thống trị (tầng lớp) trên của xã hội cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham gia hàng ngũ của giai cấp vô sản.

Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản

Chương này C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tính tiên phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách mạng.

1. Tính tiên phong của Đảng

Sự trưởng thành của giai cấp vô sản được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản. Song, Đảng Cộng sản khác với toàn bộ giai cấp vô sản ở tính tiên phong. Tính tiên phong của Đảng thể hiện: tiên phong trong hành động thực tiễn, tiên phong về mặt lý luận. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trình bày: những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Nhưng Đảng Cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp: “Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”. Mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản.

Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng.

Nhiệm vụ trước hết của Đảng là: Giai đoạn thứ nhất, tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền; giai đoạn thứ hai, dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công nhân sản xuất vào trong tay nhà nước. Mác - Ăngghen đã định nghĩa: Nhà nước tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị. Với tư cách là giai cấp thống trị, giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ; đồng thời tiêu diệt những điều kiện của sự đối kháng giai cấp. Nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình. Giai cấp vô sản không cố chấp về quyền lợi, về vai trò tồn tại của mình. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để đưa đến xóa bỏ giai cấp và xóa bỏ mình. Đó là giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hình thành. Đảng không còn tồn tại cùng với sự mất đi của các giai cấp là tất yếu khách quan.

2. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học

Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận của những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản. Tuyên ngôn đã khẳng định: “lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra”.

Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những điều kiện thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một phong trào lịch sử đang diễn ra.

- Vấn đề sở hữu:

Lý luận của người cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư bản, xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản. Giai cấp tư sản xuyên tạc rằng, người cộng sản xóa bỏ cái riêng của cá nhân. Tư bản không phải là lực lượng cá nhân, nó là một lực lượng xã hội, nhưng nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của toàn xã hội. Người sở hữu thì không lao động, người lao động thì không được quyền sở hữu, xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội.

- Vấn đề tự do cá nhân:

Mác và Ăngghen khẳng định rằng, trong xã hội tư bản chỉ có nhà tư sản có tính đối lập và cá tính, còn cá nhân người lao động thì mất độc lập và cá tính. Do đó, phải xóa bỏ cá tính tư sản, tính độc lập tư sản, và tự do tư sản, thứ tự do buôn bán và bóc lột sức lao động của người khác để hình thành xã hội mới trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

- Chế độ gia đình:

Người cộng sản chủ trương xóa bỏ gia đình tư sản, khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì quan hệ gia đình tư sản cũng tiêu tan. Bởi vì quan hệ gia đình tư sản dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà tư sản, người phụ nữ coi như một công cụ sản xuất, dựa trên chế độ cộng thể, nạn mãi dâm chính thức và không chính thức. Tư sản đã chà đạp mối liên hệ gắn bó người vô sản với gia đình.

- Vấn đề giáo dục:

Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với giáo dục vì nó là cái vốn sẵn có mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản mà thôi.

- Vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế:

Dưới chủ nghĩa tư bản, người cộng sản không có tổ quốc, giai cấp tư sản nắm quyền đại diện cho tổ quốc, dân tộc, lợi ích của tổ quốc và dân tộc mà cơ bản là lợi ích của giai cấp tư sản cho nên giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa mà giai cấp tư sản hiểu.

- Vấn đề tôn giáo:

Giai cấp nào thống trị xã hội thì quan điểm, ý thức tư tưởng của xã hội là của giai cấp đó. Dưới chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ”.

3. Những nguyên lý chiến lược và sách lược của Đảng

- Cách mạng phát triển qua hai giai đoạn:

Giai đoạn l: Xây dựng giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Con đường giành chính quyền bằng bạo lực.

Giai đoạn 2: Giai cấp vô sản sử dụng quyền lực chính trị của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, tước đoạt kẻ đi tước đoạt. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn nêu mười biện pháp cụ thể mà Mác - Ăngghen cho rằng có thể áp dụng ở những nước tư bản phát triển nhất lúc bấy giờ nhằm cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Mười biện pháp đó thể hiện chuyên chính trong hành động.

- Vấn đề chính quyền nhà nước.

Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen chưa dùng đến thuật ngữ chuyên chính vô sản nhưng tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được hai ông diễn đạt một cách rõ ràng như: “Giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”; “Giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị”.

Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời là sự cáo chung đối với tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản trước đó. Các trào lưu xã hội chủ nghĩa xuất hiện như là một tất yếu lịch sử. Tuyên ngôn xác định thái độ cụ thể với từng trào lưu: Phê phán các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động của phong kiến tiểu tư sản. Tuyên ngôn dành sự đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã hội. Tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản đều là trở ngại cho việc ra đời của chính Đảng. Tuyên ngôn phê phán những trào lưu đó nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá học thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.

Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng độc lập

Chương này khẳng định lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược và sách lược mềm dẻo của Đảng.

Nguyên tắc có ý nghĩa chiến lược của người cộng sản là: Chiến đấu cho mục đích trước mắt của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.

Xuất phát từ thực tế lịch sử của nước Đức và một số nước ở Châu Âu lúc đó, những mục đích và lợi ích trước mắt của giai cấp vô sản bấy giờ là đấu tranh đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế thực hiện quyền tự do dân chủ; còn tương lai của phong trào là đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Ở tất cả các nước, những người cộng sản ủng hộ mọi phong trào cách mạng, và trong những phong trào ấy, họ vẫn đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào.

Trong khi liên hợp với các đảng phái để chống lại thế lực phản động đang thống trị, Đảng Cộng sản xác định rằng: giành độc lập, liên minh nhưng phải có đấu tranh, có thỏa hiệp. Tất nhiên bao giờ Đảng cũng phải giữ vững nguyên tắc và giữ vững lập trường của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản tuyên bố quan điểm cách mạng không ngừng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng, họ giành cả thế giới cho mình.

“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, là khẩu hiệu chiến đấu công khai tuyên bố quá trình quốc tế của phong trào vô sản.

III- Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.

- Về vai trò của Đảng: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đều khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng.

- Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo.

- Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp - tư tưởng này làm cơ sở cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.

- Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong công tác phát triển Đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần.

Những tư tưởng quan điểm về xây dựng Đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.

vua_biotech
30-07-2012, 10:27 AM
Phê phán cương lĩnh Gôta



I- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm

Mác viết tác phẩm này vào năm 1875. Đây là một sự phân tích có tính chất phê phán cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ Đức tại Đại hội tổ chức ở Gôta. Đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Tây Âu và của phong trào công nhân thì Công xã Pari năm 1871 là một bước ngoặt. Thời kỳ này đã xuất hiện các chính đảng của giai cấp công nhân có tính chất quần chúng.

Lúc này, học thuyết mácxít được truyền bá rộng rãi và giúp cho chính đảng của giai cấp công nhân ở các nước giành được thắng lợi, đồng thời học thuyết Mác đã đập tan mọi học thuyết xã hội chủ nghĩa của giai cấp tiểu tư sản. Biện chứng của lịch sử là: sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực lý luận, buộc kẻ thù phải thay đổi bộ mặt tự hóa trang làm người mácxít để chống chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức đã xuất hiện từ trong nội bộ của Đảng xã hội dân chủ.

Mác và Ăngghen đã có nhiều cố gắng để thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước. Trước tiên là ở Đức. Vào những năm 60 và đầu những năm 70 thế kỷ XIX, ở Đức có hai tổ chức của công nhân. Một lấy tên là Tổng Hội liên hiệp công nhân Đức do Látxan cùng đồ đệ lãnh đạo và Đảng xã hội dân chủ Đức còn gọi là Đảng Aidơnach do Liếpnếch và Bêben lãnh đạo. Sau khi nước Đức thống nhất, vấn đề thống nhất hai tổ chức giai cấp công nhân Đức cũng được đặt ra. Mác và Ăngghen đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách chớ có nóng vội liên hiệp hoặc hợp nhất, bởi vì phái Látxan là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội khoa học. Mác và Ăngghen chủ trương là nên thống nhất phong trào công nhân Đức từ dưới, làm cho phái Látxan bị cô lập trong quần chúng nhân dân, nếu hợp nhất với phái Látxan phải dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Nhưng những nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách đứng đầu Liếpnếch không làm theo ý kiến mà Mác và Ăng ghen đã nhắc nhở, họ tiến hành hợp nhất hoàn toàn vô điều kiện, và tới tháng 5-1875, Đại hội đại biểu đảng liên hiệp đã được triệu tập ở Gôta. Người chủ chốt thảo ra cương lĩnh hợp nhất là Liếpnếch. Khi Liếpnếch dự thảo bản cương lĩnh, Mác không biết, sau khi viết xong rồi mới đưa dự thảo cho Mác. Mác bất bình trước sự phản bội các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học được thể hiện trong cương lĩnh và sự nhượng bộ của Đảng Aiđơnách trước phái Látxan một cách nhục nhã. Mác đã biên chú vào lề để phê phán từng phần của cương lĩnh, chính thức gọi là “Phê phán Cương lĩnh Gôta”.

Bất chấp sự phê phán của Mác - Ăngghen về bản cương lĩnh, Đại hội đại biểu liên hiệp Gôta vẫn thông qua bản cương lĩnh đó. Chính sự thỏa hiệp này đã trở thành một trong những nguyên nhân của sự thoái hóa, biến chất của Đảng xã hội dân chủ Đức và sau này đẻ ra chủ nghĩa cơ hội.

Phái Látxan trở thành tiền thân của chủ nghĩa cơ hội ở trong Đảng xã hội dân chủ Đức. Tư tưởng của phái Látxan trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa cơ hội bất chấp sự phản đối của bọn cơ hội trong Quốc tế II năm 1891, Ăngghen cho xuất bản lần đầu tiên tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta của Mác.

Ăngghen công bố rằng, với tinh thần cách mạng mácxít, “Phê phán Cương lĩnh Gôta” đã giáng một đòn nặng nề vào bọn cơ hội chủ nghĩa. “Phê phán Cương lĩnh Gôta là một trong những văn kiện có tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác cách mạng.

II - Nội dung của tác phẩm

Tác phẩm gồm những lời nhận xét của Mác đối với bản cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ Đức và bức thư của Mác gửi Brắcơ ngày 5-5-1875 với hai nội dung:

+ Mác phê phán về nguyên lý lý luận và kinh tế trong Cương lĩnh Gôta là chịu ảnh hưởng của phái Látxan.

+ Phát triển thêm về lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học các tác phẩm trước đó chưa đề cập đến.

1. Phê phán của Mác về những nguyên lý lý luận và chính trị của phái Látxan

a) Phê phán lý luận gọi là “quy luật sắt về tiền công”

Látxan đưa vào thuyết nhân khẩu của Mantuýt cho rằng dân số trong xã hội bao giờ cũng thừa, và tư liệu sinh hoạt tăng lên chậm hơn mức tăng của nhân khẩu, do đó công nhân chỉ có thể thu được tiền công với mức thấp nhất và tự gọi đây là “quy luật sắt về tiền công”. Theo Mác điều đó là hoàn toàn do Látxan bịa ra chứ không phải có quy luật của kinh tế tư bản chủ nghĩa như vậy. Cương lĩnh Gôta nêu rõ rằng, chính đảng của công nhân phải xoá bỏ hệ thống tiền công theo “quy luật sắt của tiền công”, như vậy có nghĩa là Cương lĩnh của Đảng đã tiếp thu quan điểm của Látxan và đồng thời lại công nhận luôn cả thuyết Mantuýt. Theo Mác, nếu quy luật ấy là có thực thì người ta cũng không thể xóa bỏ nó được, vì vậy quy luật này có tồn tại hay không thì việc đề ra yêu sách trong cương lĩnh đòi xóa quy luật cũng vẫn là sai, vả chăng, trong thực tế làm gì có thứ “quy luật sắt của tiền công” như thế. Trong bộ Tư bản, Mác đã vạch ra rằng: tiền công là hình thức biểu hiện giá trị hay giá cả của sức lao động, và cái quyết định con số thực tế của tiền công là do ở mỗi tình hình cụ thể, do ở nhiều điều kiện, chứ không phải là do ở “quy luật sắt” nào cả. Học thuyết về giá trị thặng dư của Mác đã bóc trần nguồn gốc và thực chất của sự bần cùng hóa giai cấp công nhân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản, do đó đã đập tan cả thuyết Mantuýt.

Theo học thuyết giá trị thặng dư của Mác, muốn xóa bỏ hệ thống tiền công cần xóa bỏ lao động làm thuê và như thế có nghĩa là phải xóa bỏ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, việc xóa bỏ tiền công được đề ra như một điều chủ yếu và độc lập là không đúng. Cho nên, đưa ra cái gọi là “quy luật sắt” vào trong Cương lĩnh của Đảng tức là đã phản ngược lại lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học.

b) Phê phán yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan ghi trong Cương lĩnh là thực hiện phân phối công bằng, là đòi sản phẩm của lao động phải thuộc về mọi thành viên trong xã hội

Mác vạch rõ, cái gọi là “sản phẩm toàn vẹn của lao động” phải thuộc về mọi thành viên của xã hội, lập luận đó, yêu sách đó là bông lông, rỗng tuếch, đó là câu nói của những người dốt đặc về khoa kinh tế học. Giả thuyết theo cách nói của họ, mọi thành viên trong xã hội đều chiếu theo quyền lợi bình đẳng nhận được sự thu nhập “toàn vẹn” thế thì kẻ không lao động cũng vẫn được hưởng thu nhập, chỉ riêng điều đó cũng đã làm cho thu nhập của người lao động bị khấu trừ rồi. Nếu bảo chỉ có những người làm việc mới được hưởng thu nhập, thế thì làm sao có thể nói được mọi thành viên trong xã hội đều có “quyền lợi bình đẳng”. Cho nên, trong bản Cương lĩnh đã tự mâu thuẫn lôgic. Hơn nữa, Mác nêu rõ là phương thức phân phối bao giờ cũng do phương thức sản xuất, do trình độ sản xuất quyết định.

Mác cho rằng, ngay trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai cũng không thể nào có cái thu nhập gọi là “toàn vẹn của lao động”; không bị cắt xén. Mà trước khi phân phối số sản phẩm cần thiết thỏa mãn nhu cầu cá nhân cho mọi người, thì xã hội cũng cần phải có khấu trừ một bộ phận để bù đắp các khoản: hao mòn tư liệu sản xuất, dùng cho tái sản xuất, dùng quỹ bảo hiểm đề phòng tai nạn, dùng chi tiêu cho trường học, cho công cuộc bảo đảm sức khỏe, dùng làm quỹ nuôi những người không có khả năng lao động chi tiêu, xây dựng quê hương. Chỉ sau khi khấu trừ những khoản đó, phần còn lại mới có thể đem phân phối cho mọi cá nhân.

Như vậy, trong tác phẩm này, Mác đã phê phán yêu sách kinh tế của chủ nghĩa Látxan mà Cương lĩnh Gôta đã đưa vào, đã vạch ra rằng, yêu sách này là dựa trên cơ sở của kinh tế học tư sản, nó cắt rời giữa phân phối với sản xuất.

c) Phê phán Cương lĩnh Gô ta phản bội, chủ nghĩa quốc tế vô sản

Cương lĩnh Gôta không hề nói đến nghĩa vụ quốc tế của giai cấp vô sản Đức.

Chủ nghĩa Mác không phủ định yếu tố dân tộc trong chủ nghĩa xã hội, nhưng Mác phê phán “Cương lĩnh Gôta” là đã quá sa vào chủ nghĩa xã hội dân tộc. Theo Mác, quan điểm này là rất quan trọng, bởi bọn địa chủ quý tộc, tư sản Đức đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc để bắt giai cấp công nhân phục tùng quyền lợi và yêu cầu của giai cấp tư sản là không lợi dụng quan điểm chủ nghĩa dân chủ Látxan đưa ra.

d) Phê phán quan điểm của Látxan cho rằng, ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động

Lập luận này của Látxan đã phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản, như vậy đã đẩy giai cấp vô sản bị cô lập. Điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột. Yêu sách của “Cương lĩnh Gôta” nêu lên không phải là đấu tranh giai cấp mà là yêu sách của chủ nghĩa Latxan: tổ chức những “hợp tác xã sản xuất” của công nhân do nhà nước giúp đỡ. Đề ra yêu sách này có nghĩa là thụt lùi một bước, là làm cho phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái. Mác cho rằng: nói rằng những người lao động muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo quy mô xã hội và trước hết theo qui mô dân tộc điều đó chỉ có nghĩa là họ cố gắng tìm cách lật đổ những điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên quan gì tới việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Thay đấu tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái đã làm cho phong trào công nhân đi vào thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Lập luận trên đây của Látxan và quan điểm phủ định liên minh công – nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II có mối liên hệ tư tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của Mác đối với chủ nghĩa Latxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.

đ) Phê phán quan điểm về nhà nước trong Cương lĩnh Gôta

Đây là một quan điểm rất tai hại và phản động. Tính chất nguy hại của nó ở chỗ nó phủ định nguyên lý của Mác về sự cần thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản. Đối lập với học thuyết mácxít, nó nêu lên cái gọi là “Nhà nước tự do”... Đem thuyết “Nhà nước tự do” thay cho học thuyết về chuyên chính vô sản của Mác là đem thay thế yêu sách xã hội chủ nghĩa bằng yêu sách dân chủ tư sản và mang dấu ấn màu sắc của chủ nghĩa Látxan. Mác - Ăngghen đã phê phán thuyết “Nhà nước tự do” cho rằng mục đích của chủ nghĩa cộng sản không phải là cái gì chung chung gọi là “nhà nước tự do” mà là tiêu diệt mọi nhà nước. Nói “Nhà nước tự do” nghĩa là muốn nhà nước tồn tại mãi mãi và trong thực tế là sùng bái nhà nước đương thời.

Hơn nữa, “Nhà nước tự do” là gì? và đối với ai để nói nhà nước tự do? Ăngghen cho rằng, giai cấp vô sản cần nhà nước chứ không phải là vì để tự do, mà là để trấn áp giai cấp bóc lột. Vậy, yêu sách “Nhà nước tự do” cũng là rỗng tuếch. Trong khi đưa ra “Nhà nước tự do”, Cương lĩnh Gôta không hề nhắc tới việc tiêu diệt nhà nước tư sản, như vậy thực tế vấn đề chỉ là cải thiện nhà nước đương thời mà thôi. Cương lĩnh thể hiện quan niệm về tính siêu giai cấp của nhà nước, do đó có thể dựa vào nhà nước của giai cấp bóc lột để tổ chức chủ nghĩa xã hội lập các hợp tác xã do nhà nước Phổ giúp đỡ để xây dựng chủ nghĩa xã hội; Điều đó hoàn toàn trái ngược quan điểm của Mác là phải qua cách mạng, đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột và lập nền chuyên chính vô sản để đi tới chủ nghĩa xã hội.

Tóm lại, qua các vấn đề trên, ta thấy “Cương lĩnh Gôta” phản ngược lại lý luận mácxít khoa học. Ngoài chủ nghĩa Látxan, “Cương lĩnh Gôta” còn thu nhặt rất nhiều thứ khác nữa ở trong một đảng theo chủ nghĩa tự do tư bản, vì vậy, Mác đã phê phán kiên quyết. Mác đã đánh giá thực chất Cương lĩnh Gôta như sau: “Mặc dầu tất cả những lời lẽ dân chủ rất kêu của nó, toàn bộ Cương lĩnh từ đầu chí cuối đều nhiễm phải cái bệnh của phái Látxan là lòng tin của thần dân vào nhà nước, hoặc là - điều này cũng chẳng có gì tốt hơn - tin vào phép màu dân chủ, hay nói cho đúng hơn, đó là sự thỏa hiệp giữa hai lòng tin ấy vào phép màu, cả hai loại đều xa lạ như nhau với chủ nghĩa xã hội”.

2. Phát triển của Mác về lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học

Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta” khi phê phán chủ nghĩa Látxan, Mác đã phát triển lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học. Mác đã đề ra nguyên lý về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đã nêu nguyên lý về hai giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự khác nhau giữa hai giai đoạn đó.

a) Lý luận về thời kỳ quá độ

Trước khi viết “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, Mác đã chứng minh sự cần thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản, sự cần thiết phải đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, Mác nêu vấn đề này bằng một phương thức khác. Mác nói, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không có một thời kỳ quá độ về chính trị. Nhà nước của thời kỳ quá độ này là nền chuyên chính của giai cấp vô sản. Mác khẳng định rằng: giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản có một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội trước đến xã hội sau. Tương ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị trong đó nhà nước không thể làm khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Trong Phê phán Cương lĩnh Gôta, Mác phê phán chủ nghĩa Látxan không phải là vì nó đề ra yêu sách có tính chất dân chủ tư sản, mà vì nó chỉ thỏa mãn với yêu sách đó, không đưa ra một chút gì về yêu sách xã hội chủ nghĩa mà chỉ đem yêu sách có tính chất dân chủ tư sản thay cho yêu sách dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng về chuyên chính vô sản của Mác được Lênin phát triển trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”. Trong tác phẩm đó, Lênin khẳng định rõ thái độ vô sản chuyên chính đối với dân chủ và so với dân chủ tư sản thì vô sản chuyên chính còn dân chủ gấp nhiều lần.

b) Lý luận về phân phối

Trong khi phê phán sản phẩm, “toàn vẹn của lao động” của chủ nghĩa Látxan, Mác đồng thời cũng chỉ rõ cách đặt vấn đề phân phối như thế nào sau khi chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt và chủ nghĩa cộng sản giành được thắng lợi. Mác đã vứt bỏ những câu rỗng tuyếch trong Cương lĩnh về “phân phối công bằng và đặt vấn đề này trên một cơ sở khoa học”. Mác đặt vấn đề phân phối trong sự liên hệ với trình độ phát triển của bước sản xuất xã hội. Mác cho rằng, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản cũng không thể bỏ được nhà nước và pháp luật, và với sự phát triển của sức sản xuất đòi hỏi xã hội phải thực hiện phân phối “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.

Theo Lê nin, cách phân phối này là một “bước tiến vĩ đại” vì nó nói lên bọn bóc lột đã bị tiêu diệt, ai nấy đều tham gia lao động, mọi người đều có quyền làm việc và có quyền hưởng theo lao động của mình. Nhưng sự bình đẳng như vậy vẫn chưa phải là tuyệt đối. Ở đây mới chỉ xác lập quyền bình đẳng về quan hệ đối với tư liệu sản xuất và lập nên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, đã xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Nhưng về mặt tiêu dùng và phân phối, thực tế chưa hoàn toàn bình đẳng, vì tuy mọi người bình đẳng hưởng theo lao động nhưng thực tế mỗi người khác nhau: năng lực công tác có người giỏi người kém, nhân khẩu có gia đình nhiều người có gia đình ít người cho nên về tiêu dùng mọi người không hưởng như nhau. Mác viết rằng: “Nhưng đó là những thiếu sót không thể trách khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”. Nhưng khi chuyển sang giai đoạn của xã hội cộng sản, Mác nói rõ thêm: cùng với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát triển, trình độ văn hóa được nâng cao; sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn được xóa bỏ, lao động trở thành nhu cầu cần thiết bậc nhất cho sức sống của mọi người, và do đó, tất nhiên phải chuyển sang một giai đoạn mới, một nguyên tắc mới là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Đó là lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân phối lợi ích vật chất để kích thích lao động nữa.

Nguyên lý của Mác về hai giai đoạn của xã hội cộng sản chủ nghĩa là một bằng chứng thể hiện sức mạnh vĩ đại của lý luận khoa học. Nó dự kiến tương lai của con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Tất nhiên, trong nguyên lý này không thể dự kiến hết mọi cái của tương lai.

III- Ý nghĩa của tác phẩm

Đây là một di sản quý báu về lý luận mà các tác phẩm khác chưa đề cập đến:

- Quan niệm thiên tài về hai giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

- Khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình cải biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội .

- Làm nổi bật tính tất yếu, vai trò lịch sử của chuyên chính vô sản.

Về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, phải quan tâm xây dựng cho được một cương lĩnh chính trị đúng đắn. Tác giả đem lại cho ta một kiểu mẫu về việc hoàn chỉnh một cách khoa học bản Cương lĩnh cách mạng của chính đảng vô sản. Trong công tác tư tưởng, tác phẩm cho ta một tấm gương về tinh thần phê phán và phê phán như thế nào cho khoa học để lột mặt phản bội của các trào lưu cơ hội. Về tổ chức, tác phẩm cho ta thấy không thể sáp nhập tổ chức một cách giản đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc, không được nhân nhượng bất kỳ một sự phản bội nào về lý luận, tư tưởng để bảo vệ sự trong sáng của lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học.



(Theo “Giới thiệu tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước”, NXBCTQG, Hà Nội, 1999.)

lobimex
30-07-2012, 10:27 AM
hehe , sau 1 thời gian quy tụ đủ các anh chị em gần xa , sắp tới tại hạ sẽ cùng với 1 số kẻ tâm huyết khác lập 1 forum về Chủ nghĩa Cộng Sản , các đồng chí nào có cảm tình với Đỏ thì hãy đón chờ và tham gia nhé :)

spn
30-07-2012, 10:27 AM
Những bức thư tình của Các Mác và Gienny


"Con lợn lòi con yêu dấu của Gienny! Gienny rất mừng khi được biết Các vui, được biết rằng bức thư của Gienny đã làm cho Các phấn chấn thêm, rằng Các nhớ Gienny, rằng Các có đến Côlônhơ uống sâm-banh và ở đấy , cũng có những câu lạc bộ của phái Hêghen... Nhưng mặc dầu có các thứ đó, lẽ ra Các cũng nên khen Gienny vài ba câu về cái công trình học tiếng Hy Lạp, về "sự uyên bác của Gienny mới phải. Lẽ ra, Các cũng nên dàn cho Gienny một bài tán dương nho nhỏ. Âu là tất cả cái phái Hêghen của các anh đều thế cả. Các anh không thừa nhận bất cứ cái gì, dù xuất sắc đến đâu cũng mặc nếu nó không hợp với phong cách của anh. Thành thử Gienny đành phải khiêm tốn đứng ngoài và đành nằm ngủ trên những cành nguyệt quế vinh quang của bản thân vậy.

Phải, Các yêu quý ạ, đáng tiếc là quả thật Gienny phải nằm dài, nhưng không phải trên những cành nguyệt quế, mà là trên giường đệm, trên đống gối. Và ngay bức thư nhỏ này Gienny cũng phải nằm trên giường mà viết. Hôm chủ nhật, Gienny đã thử tiến hành một cuộc viễn du táo bạo sang các phòng khác nhưng bị mệt nặng sau phải hối tiếc mãi.

...Các yêu dấu ! Hoá ra các đã đi khá sâu vào chính trị ? Nhưng trong cái lĩnh vực này có gì đáng cho người ta phải gãy cổ đâu. Bao giờ Các cũng nên nhớ rằng mình có một l người bạn gái nhỏ chỉ sống bằng những niềm hy vọng đặt vào Các, nhớ Các và hoàn toàn phụ thuộc vào số phận Các".

Gienny gửi dến Các ở đầu mỗi ngón tay một chiếc hôn. Mấy chiếc hôn ơi, hãy bay đến Các của tôi và hãy ép thật mạnh vào môi Các để cho Các cảm biến được hết niềm trìu mến của tôi. Và sau đó hãy đừng làm những sứ giả câm lặng của mối tình tha thiết của tôi. Hãy thì thầm với Các những lời âu yếm mà tình yêu của tôi sẽ mách thầm cho, hãy kể cho Các nghe tất cả. à không cũng phải để lại chút gì cho nữ chủ nhân chứ.

Các khoẻ nhé, Các yêu quý, Các đuy nhất !Gienny không còn có sức để viết tiếp nữa. Nếu cứ viết chỉ lát nữa đầu sẽ rối tung lên, rồi lại cái tiếng ù ù không sao chịu ấy.

Các nhớ chứ ? Tiếng ầm ầm của loài bốn vó lay chuyển cánh đồng êm ái".

Chào người bạn nhỏ của Gienny!

Này, sau này Gienny sẽ lấy Các chứ nhỉ ?"

(Trích từ tiểu thuyết "Người đi đường không biết mỏi" ("Tuổi trẻ Các Mác") của Blêna llina)

Em yêu quí của anh !

Anh lại được viết thư cho em, bởi vì anh đang cô đơn và bởi vì anh cảm thấy khổ sở khi luôn luôn chỉ được trò chuyện cùng em trong tâm tưởng, còn em lại không biết gì về điều đó, lại không nghe thấy anh và không thể trả lời anh. Em hiện lên trước mắt anh thật là sống động, anh bế em trên tay, hôn em từ đầu đến chân, anh quỳ dưới chân em mà thì thầm: "Anh yêu em !"

Xa cách nhau ít hôm là một điều rất có ích, bởi sự giao tiếp thường xuyên sẽ dễ gây cảm giác đơn điệu khiến những khác biệt giữa các sự vật bị xoá nhòa. Ngay cả các ngọn tháp nếu ta đứng gần, cũng có vẻ như không còn cao lắm, trong khi đó, những chuyện vặt vãnh trong đời sống hàng ngày, khi ta đụng chạm sát sạt với chúng, /ại tăng lên đáng kể. Cái niềm say mê cũng vậy. Những thói quen thường ngày do ta ở gần nhau nên chiếm lĩnh ta hoàn toàn và có vẻ giống như niềm say mê, sẽ không tồn tại nữa một khi đối tượng trực tiếp của chúng biến mất khỏi tầm nhìn. Những niềm say mê sâu sắc do đối tượng ở kề bên nên có vẻ giống như các thói quen thường ngày, sẽ nổi hẳn lên và lại có được sức mãnh liệt vốn có của chúng dưới tác động diệu kỳ của sự xa cách. Tình yêu của anh đối với em cũng thế.

Hễ có một khoảng không gian phân cách chúng ta là ngay lập tức anh thấý rõ thời gian phục vụ cho tình yêu của anh chỉ nhằm mục đích y hệt mục đích mà nắng và mưa phục vụ cho cây cỏ - tức /à dễ phát triển. Tình yêu của anh đối với em, hễ em ở xa anh, hiện lên đúng như tầm cỡ của nó - tầm cỡ của một chàng khổng lồ ở đó tập trung toàn bộ nghị lực tinh thần của anh và toàn bộ sức mạnh các tình cảm của anh. Anh lại cảm thấy mình là là một con người hiểu theo ý nghĩa đầy đủ của từ này, bởi anh được sống trong niềm say mê lớn lao...

Ðương nhiên trong thế gian này có nhiều phụ nữ và có một số người rất đẹp. Nhưng làm sao anh có thể tìm được một gương mặt nữa mà mỗi đường nét, thậm chí cả mỗi nếp nhăn trên đó đều gợi được trong anh những kỷ niệm mãnh liệt và đẹp đẽ nhất của đời anh? Tạm biệt em nhé, em yêu quí của anh, một ngàn lần, một vạn lần hôn em và các con.

Các của em

(Thư của Mác gửi cho Gieni sau khi hai người đã lấy nhau đã nhiều năm)

qnkha
30-07-2012, 10:27 AM
Quan niệm của Các Mác về sự vận động lịch sử của Cái Đẹp trong một số hình thái kinh tế

Một trong những kết luận quan trọng được C.Mác rút ra từ quá trình nghiên cứu về cái đẹp tất yếu này sinh trong tiến trình phát triển của lịch sử. Quy luật của cái đẹp không "nhất thành biết biến" từ một hình thức lao động, một hình thái xã hội nào. Cái đẹp có quy luật phổ biến từ thực tiễn thẩm mỹ. Ở mỗi hình thái xã hội nào, quy luật ấy có sự vận động và biểu hiện khác nhau. Ngoài những biểu hiện khác nhau còn xuất hiện cãn quy luật khác nhau. Từ tính phong phú của thực tiễn sáng tạo, C.Mác đã đưa ra quan niệm khái quát vấn đề sự vận động lịch sử của cái đẹp trong một số hình thái kinh tế - xã hội.

C.Mác cho rằng, quy luật của cái đẹp gắn liền với lao động, với năng lực bản chất của con người. Trong một xã hội mà ở đó lao động bị tha hoá, cái đẹp không có điều kiện để phát triển. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác viết: "Theo những quy luật mà kinh tế chính trị học đề ra thì sự tha hoá của công nhân trong vật phẩm của mình, biểu hiện như sau: Công nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng bị mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt; vật do anh ta tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người dã man... Lao động sản xuất ra những vật phẩm kỳ diệu cho những người giàu, nhưng chính nó lại sản xuất rạ bần cùng hoá công nhân. Nó tạo ra lâu đài, nhưng cũng tạo ra cả những nhà ổ chuột cho công nhâ. Nó sáng tạo ra cái đẹp, nhưng cũng làm què quặt công nhân" (1).

Đôí với C.Mác, quy luật vận động cơ bản củacái đẹp phải gắn liền với lao động tự do. Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, trong các xã hội tiền tư bản, mặc dầu năng suất lao động còn thấp, các cá nhân và xã hội chưa có sự phát triển tự do và đầy đủ..., nhưng ở những hình thái đó nền sản xuất xã hội đã lệ thuộc vào ldcủa con ngườinhư là mục đích. Bản thân người lao động là chủ nhân của những điều kiện hiện thực của mình, cho nên lao động và sản phẩm của lao động đã đem lại một sự thoả mãn thẩm mỹ nhất định cho họ. Như vậy, nhờ sự tự do, dù ít nhiều còn mang tính chất cục bộ hoặc bị hạn chế về phương diện lịch sử, chẳng hạn như còn ở trong trạng thái sản xuất thủ công, thì những hứng thú, cảm giác của con người về cái đẹp vẫn xuất hiện, bởi vì nhân tố lao động thể chất và lao động trí óc được kết hợp tự do. Theo C.Mác, cơ sỡh để phát triển cái đẹp ở thời kỳ Cổ đại và Phục hưng là sự thống nhất bước đầu giữa người ldvà điều kiện lao động. Và do vậy, có thể nói rằng, ở đâu có lao động tự, lao động không bị cưỡng bức thì ở đó luôn có những mầm mống của sự sáng tạo cái đẹp.

Trong các chế độ tiền tư bản, nghề thủ công, nền sản xuất vật chất và nghệ thật về cơ bản là không bị tách rời và chia cắt vụn nhỏ. Hội họa, điêu khắc, âm nhạc, thơ ca nói chung đều có tính chất tạo hình, bởi vì chúng gắn bó trực tiếp với nhu cầu của cộng đồng, của công xã thị thành. Hội hoạ, điêu khắc phụ thuộc vào những nhiệm vụ của kiến trúc. Thơ ca gắn bó chặt chẽ với những mục tiêu trực tiếp của tôn giáo, đạo đức, triết học. Do đó, quy luật của cái đẹp được vận động một cách thuận tiện. Cái đẹp thuần tuý không xuất hiện, bởi vì thực tiễn cuộc sống đòi hỏi những cái đẹp phù hợp với nó. Nhà điêu khắc Lixip luyệ cho đẹp thanh kiếm và những chiếc mũ giap để bộc lộ những biểu tượng của thời đại anh hùng, lao động tự do. Raphaen chạm khắc, hoàn thiện các vòm trần và những vòi nước sao cho cái đẹo làm sáng tỏ thời đai. Lêona đờ Vãnhi chế tạo đồ chơi và những quả pháo hoa cũng như nhiều kiến trúc sư xây những toà nhà tạo nên cái đẹp đại diện cho cả thời đại nhân văn.

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản dần dần phá vỡ sự thống nhất giữa lao động và quyền sở hữu, thủ tiêu tính toàn vẹn tự nhiên, tính không phân chia giữa phương diện thể chất và phương diện tinh thần của quá trình lao động. Sự mâu thuẫn, thù địch giữa cá nhân và cộng đồng xuất hiện. Tình trạng người trực tiếp sản xuất đã quyết định quá trình tha hoá lao động. sản xuất tư bản chủ nghĩa tước mất nội dung tinh thần của lao động. Trong quá trình đó, người công nhân bị đặt vào vị thế đối lập với những tiềm năng tinh thần của mình.

Chủ nghĩa tư bản đã tiến một bước dài trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật. nhưng, trong xã hội tư bản, sản xuất hiện ra như mục đích của con người, còn của cải hiện ra như mục đích của sản xuất. Trong xã hội ấy, tất cả các quan hệ của con người phụ thuộc vào duy nhất mối quan hệ tiền - hàng trừu tượng.

Trong xã hội tư bản, những khả năng và những quan hệ thực tế của cá nhân bị xuyên tạc, bóp méo. Chúng ta mất đi ý nghĩa tự bản thân mình và chỉ còn như một quan hệ thực dụng, lợi ích vật chất trần trụi; mất đi bản chất hài hoà của cái đẹp, bởi chúng đáp ứng lợi ích tối đa cho người này nhưng lại tạo nên sự đau khổ cho người khác. Theo C.Mác, sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với sự sáng tạo cái đẹp.

Nó làm tha hoá các lực lượng sáng tạo của con người, "Phi tinh thần hoá" lao động, phi cá tính hoá cá nhân con người. Vì vậy, ông cho rằng, hình thức tư sản của lao động phát triển càng thuần khiết và càng thích ứng thì lao động càng mất đi tính thẩm mỹ vốn có của mình. Mác coi quá trình lao động bị tha hoá như là một giai đoạn xây dựng thiết yếu về mặt lịch sử dưới hình thức cưỡng bức. Trạng thái lao động đó có thể tạo nên cơ sở vật chất của xã hội, nhưng về mặt tinh thần, nó phản lại cái đẹp cao quý bởi sự đam mê thực dụng.

Những tư tưởng mỹ học của C.Mác chỉ ra rằng , chủ nghĩa tư bản đã tách rời hoàn toàn lao động với quyền sở hữu, do đó của cải mà người nông dân tạo radường như trở thành một lực lượng xa lạ, thù địch, đối lập với bản thân họ. Thưc vậy, người công nhân không thể có mỹ cảm trước lao động mà của cải mình làm ra thuộc vền người khác. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, công nhân không phải là chủ nhân của các hoạt động và sản phẩm do mình sáng tạo, mà là người nô lệ, người đi làm thuê. lao động tha hoá đã dẫn đến chỗ phá vỡ sựchiếm lĩnh cái đẹp đối với hiện thực. Và, chính với ý nghĩa như vậy, xuất ra nhiều đối tượng thì sản xuất ra nhiều cái đẹp thì anh ta càng trở nên xấu hơn. Rõ ràng, trong hình thức lao động tư bản chủ nghĩa, người công nhân đã không khẳng định được mình; ngược lại, họ lao động càng nhiều thì càng phủ định mình. Đó chính là nghịch lý của cái đẹp trong xã hội tư bản.

Quy luật của caío đẹp bị đảo lộn trong hoạt động tư bản, bởi lao động tự do mới là nguồn gốc chân chính của quy luật ấy. Lao động trong xã hội tư bản, người công nhân bịtướcmất nhu cầu tinh thần và chỉ còn lại nhu cầu thể xác. Cái đẹp thuộc về lĩnh vực tinh thần, thuộc về con người. Nhu cầu thể xác là nhu cầu vốn có của động vật và trong chủ nghĩa tư fbản, cái vốn có của động vật ấy đã biến thành số phận của con người.

Đối với giai cấp tư sản, giá trị thặng dư là khát vọng cao nhất, là giá trị thầm mỹ và đạo đức lớn nhất. Trong xã hội tư bản, tiền là thước đo giá trị duy nhất và do vậy, giá trị thẩm mỹ đã biến thành giá trị thực dụng. C.Mác cho rằng, sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với nghệ thuật và thi ca, bởi nó đảo lộn cái đẹp phải rở thành hàng hoá, biến lao động sáng tạo của người nghệ sĩ thành lao động trừu tượng. Các giá trị thẩm mỹ thực sự không thể đo bằng giá trị thời gian lao động xã hội cần thiết. Quan hệ hàng hoá tư bản chủ nghĩa biến toàn bộ cái đẹp thành giá trị trao đổi và do vậy, nó trái ngược với bản chất thẩm mỹ của cái đẹp.

Các thước đo hàng hoá thông qua giá trị trao đổi hoàn toàn khác biệtvới các thước đo của sáng tạo cái đẹp. Cái đẹp trong các sản phẩm thẩm mỹ không phải là một sản phẩm thuộc về số lượng. Lao động nghệ thuật là lao động đặc biệt, tạo nên cái đẹp. Vì vậy, lấy thước đo của lao động trừu tượng và của giá trị trao đổi để áp dụng vào việc đánh giá cái đẹp trong nghệ thuật là không thể chấp nhận được.

Cái đẹp của nghệ thuật là sản phẩm hiếm quý của tài năng và thiên tài. Tính thương mại, buôn bán hàng hoá trong xã hội tư bản chỉ có khả năng kích thích việc sáng tạo cái đẹp giả hiệu.

Xã hội tư sản thù địch với sự sáng tạo nghệ thuật là kết luận được C.Mác rủta trên cơ sở phân tích toàn diện các phạm trù kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản. Từ việc phân tích những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, ông cho rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với một số lĩnh vực nhất định của sản xuất tinh thần như nghệ thuật và thơ ca; rằng, những mâu thuẫn giữa sự phát triển nghệ thuật và nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chế độ tư bản chủ nghĩa, từ tính chất thù địch của người lao động đối với nền sản xuất của chế độ đó.

C.Mác đã nhìn thấy quan hệ con người đằng sau các phạm trù vật chất, phát hiện mọi xu hướng thù địch với nhân loại đều bắt rễ trong hình thái bóc lột tư bản - hình thái làm què quặt, huỷ hoại và lăng nhục con người, đồng thời tước đoạt sự tự chủ, tính độc lập và sáng tạo của họ. Trong quan niệm của ông, chủ nghĩa tư bản thù địch với người lao động. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm con người trở lên nghèo nàn, biến họ thành đồ chơi của các thế lực xã hội.

Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác vạch rõ rằng, cơ sở kinh tế - xã hội của phương thức sản xuất tư fbản chủ nghĩa có ảnh hưởng rất tại hại đối với nghệ thuật; rằng, chỉ có thể cứu nghệ thuật bằng cách cải tạo các quan hệ xã hội theo phương pháp cách mạng và chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới tạo ra những khả năng vô tận cho nề văn hóa nghệ thuật của nhân loại phát triển tiến bộ không ngừng. ông đã gắn những vấn đề quan trọng nhất của nền văn hóa nghệ thuật với những vấn đề của cách mạng vô sản; đồng thời, thấy ở giai cấp vô sản vai trò người đại diện chân chính nhất của tiến bộ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa.

Với C.Mác, chỉ có trong xã hội chủ nghĩa, nghệ thuật mới phát triển tực rỡ và đạt được sự phồn vinh nhất, bởi xã hội đó không còn tình trạng người bóc lột người, và do vậy, nó bảo đảo sự tự do cho các cá nhâ trong mọi hoạt động sáng tạo.

Điều kiện căn bản cho sự phát triển toàn diện năng lực của con người là xoá bỏ tình trạng tha hoá của lao động. Phê phán sự tha hoá lao động dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là tư tưởng nhất quán của C.Mác. Trong bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã tìm hiểu mối liên hệ nội tại giữa sự tha hoá lao động với toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử loài người, khẳng định sự tiêu vong của tha hoá lao động như một tất yếu khách quan. Ông cho rằng, một mặt, tha hoá lao động làm cho con người phát triển phiến diện, nhưng đồng thời cũng tạo nên bước ngoặt của cảm xúc thẩm mỹ; mặt khác, dù trong tình trạng tha hoá lao động, con người vẫn sáng tạo ra cái đẹp, vẫn tồn tại hoạt động thẩm mỹ. Lao động có bị tha hoá thì nó vẫn là lao động của con người, vẫn là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Có điều là, trong điều kiện như vậy, những hoạt động sáng tảoa cái đẹp và hoạt động thẩm mỹ cũng bị phiến diện và tha hoá. C.Mác viết: "Giống như nhờ sự phong phú và nghèo nàn của nó ¾ sự phong phú về vật chất và tinh thần và sự nghèo nàn về vật văn chất và tinh thần, và sự nghèo nàn về vật chất và tinh thần,- xã hội đang nảy sinh tìm thấy trước mặt mình toàn bộ tài liệu cho quá trình hình thành đó, cũng vậy, xã hội đã xuất hiện sản sinh ra, với mình, con người với tất cả sự phong phú ấy của bản chất của nó, sản sinh ra con người phong phú và toàn diện, sâu sắc trong tất cả các cảm giác và tri giác của nó" (2). Như vậy, một nền công nghiệp tiên tiến và sự phát triển sản xuất vật chất là tiền đề cơ bản cho tính toàn diên, tính phong phú của cảm xúc thẩm mỹ. Nhưng, giữa hai phạm trù đó còn có một khâu trung gian quan trọng là chế độ xã hội.

Khi cho rằng, cái đẹp bị tha hoá trong xã hội tư bản, C.Mác đã đề xuất tư tưởng gắn giải phóng cái đẹp với giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Theo ông, chấm dứt tình trạng tha hoá của lao động cũng chính là mở ra cơ sở của sự chiếm lĩnh bản chất con người bởi con người và cho con người. Cái cơ sở mang giá trị của conngười trả lại cho con người với tư cách con người lao động tự do đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Và, trong hình thái kinh tế - xã hội mới đó, các quy luật của cái đẹp sẽ phát huy hết phạm vi ảnh hưởng của mình.

Với C.Mác, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử và nó sẽ phủ định chế độ tư bản. Sự phát triển của chế độ xã hội mới là quá trình con người "xoá bỏ một cách tích cực mọi sự tha hoá", là "sự tự ý thức tích cực của con người". "chủ nghĩa cộng sản vói tính cách là sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu - sự tha hoá ấy của con người" - và do đó, với tính cách là "sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người" sẽ đảm fbảo cho" con người hoàn toàn quay trở lại chính mình vơi tinh cách là con người xã hội, nghĩa là có tính chất người - sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó"(3). Rằng, với sự xuất hiện của chủ nghĩa cộng sản, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, mọi thành quả cao văn hóa, khoa học sẽ mang lại lợi íchcho toàn thể xã hội nói chung, cho từng cá nhân nói rieng. Ông khẳng định một cách chắc chắn rằng, sau thời kỳ quá độ là một"... chế độ xã hội mới trong đó sẽ không còn có những sự phân biệt giai cấp hiện nay nữa, và trong đó... những phương tiện để sinh sống, để hưởng thụ những niềm vui của cuộc đời, để có được học vấn, và để biểu hiện tất cả mọi năng lực thể chất và tinh thần của mình, sẽ được giao cho tất cả mọi thành viên trong xã hội sử dụng ngày càng đầy đủ, nhờ sử dụng có kế hoạch và ot hơn nữa những lực lượng sản xuất to lớn hiện đã có sẵn, bằng chế độ lao động bắt buộc như nhau đối với mọi người "(4). Trong xã hội mới đó, thông qua quá trình cải tạo và biến đổi thế giới, con người cũng sẽ cải tạo và biến đổi thế giới, con người cũng sẽ cải tạo và biến đổi cả bản thân mình, bổ sung vào hệ giá trị tinh thần của mình những phẩm chất mới, ngày càng cao đẹp hơn nhiệm vụ và ở đó, sự phát triển tự do của mỗi con người sẽ trở thành điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Điều kiện cơ bản và có ý ghĩa quyết định để mọi thành viên trong xã hội có được sự tự do chân chính, đích thực cũng như tự do phát huy mọi năng lực sáng tạo của mình, theo C.Mác, là thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng mọi thành viên trong xã hội. Ông tin tưởng rằng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ là một kết quả tất yếu và trở thành điểm đến của cả nhân loại.

Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người lần đầu tiên đạt tới sự thống nhất hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Chỉ có xã hội đó mới có thể tạo nên các điều kiện khách quan và chủ quan để lao động tựdo xã hội trênội dung quy mô toàn xã hội và dưới hình thức thẩm mỹ. Trong điều kiện ấy. quy luật của cái đẹp hướng đến khẳng định sự phát triển toàn diện và phong phú đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong bước chuyển từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản, lao động xã hội công ích trở thành nhu cầu sống hàng đầu và hơn thế, trở thành hoạt động sáng tạo tự do đem lại hco con người những khoái cảm thẩm mỹ trước quá trình lao động và các sản phẩm lao động.

Khi xã hội thực hiện bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang xn xã hội, một thay đổ mang tính cách mạng, tích cực trên lĩnh vực cái đẹp là sự tham gia của đông đảo nhân dân vào quá trình sáng tạo thẩm mỹ. Chủ nghĩa xã hội mở ra cho nhân dân lao động những khả năng to lớn để phát triển đầy đủ năng lực sáng tạo cái đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, như sản xuất, giao tiếp, hoạt động khoa học, sinh hoạt và nghệ thuật... Sự thay đổi mục đích của lao động, từ lao động kiếm sống sang lao động sáng tạo, tất yếu sẽ mở rộng quy luật của cái đẹp trong chủ nghĩa xã hội không chỉ thúc đẩy quá trình trả lại cho con người những giá trị nhân chính vốn có, mà còn nâng lao động của con người lên trình độ nghệ thuật. Lao động cao nhất là lao động sáng tạo diễn ra theo quy luật của cái đẹp; là điều kiện cần thiết để gắn quá trình lao động với sự thích thú thẩm mỹ. Khi lao động thoát khỏi những động cơ vật chất riêng tư và được kích thích bởinc tìm tòi không vụ lợi thì quy luật của cái đẹp nâng cao năng lực, phẩm chất và nhân cách con người. Quy luật của vái đẹp không chỉ kích thích các yếu tố thẩm mỹ benngoài của lao động, mà hơn thế, nó còn tạo nên sự phong phú bên trong tâm hồn người lao động. Nó giúp đỡ các nhân tố bên trong tiếp biến những giá trị và chống lại các phản giá trị. Như vậy, quy lật cua cái đẹp trong chủ nghĩa xã hội kích thích sự tự do, biến thành nhân tố hùng mạnh để chiếm lĩnh toàn diên các phương diện thẩm mỹ trong quá trình con người thưởng thức, đánh giá và sáng tạo cái đẹp.

Cái đẹp là một giá trị. Các quy luật của cái đẹp vận động trong lịch sử xã hội và phản ánh các điều kiện xã hội. Trong xã hội tư bản - nơi mà sự bóc lột và tha hoá lao động đang hiện hữu, cái đẹp tuy vẫn có giá trị cải tạo xã hội nhưng nó không phát triển bình thường, thậm chí phải chịu thất bại. Muốn giải phóng cái đẹp cần phải giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản vừa là cơ sở để giải phóng lao động, giải phóng con người vừa tạo điều kiện để cái đẹp phát huy toàn bộ sức mạnh tiềm tàng của mình. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng chính là quá trình quy luật của cái đẹp phát huy tác dụng. Xây dựng xã hội mới,con người mới, nền văn hóa mới ở nước ta dưới ánh ság của tư tưởng về quy luât của cái đẹp do C.Mác nêu ra là mục tiêu lý tưởng và cũng là hoạt động hiện thực của chúng ta.