Ðăng nhập

View Full Version : Sài Gòn - Chợ Lớn


coimexco-cty
30-07-2012, 10:24 AM
Ngàn năm trước (trước 1698)

Trước khi Chúa Nguyễn thiết lập bộ máy cai trị (1698) thì Sài Gòn - Gia Định còn là một vùng đất hoang vu, rừng rậm, sông nước, xen lẫn những gò đất cao nằm trong vùng đất mới, rộng lớn, mênh mông ở phía Nam trải dài tới biển Đông.

Cách đây khoảng 3000 - 4000 năm trên vùng đất này đã có những nhóm cư dân cổ sinh sống với nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho đến thời kỳ kim khí. Những cư dân cổ đã từng sinh sống trên vùng đất Sài Gòn từ nhiều thiên niên kỷ trước, đã biết canh tác nông nghiệp và bắt đầu chinh phục vùng đất thấp ở phía nam và phía đông nam. Lúc bấy giờ cuộc sống con người ở đây hết sức tự do, không có lãnh thổ quốc gia, không có địa giới hành chánh và cũng chưa có khái niệm về vùng đất Sài Gòn.

Sài Gòn vào thế kỷ 16 - 17

Mãi đến giữa thế kỷ 17 vào thời Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) được đặc quyền cai trị đất Đàng trong, đã bắt đầu công cuộc di dân người Việt đến khai phá vùng đất mới phía Nam. Vùng đất Sài Gòn lúc bấy giờ ở vị thế trung tâm vùng đất mới, thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, là một trong những nơi nhóm dân cư Việt đầu tiên đến đây định cư.

Đến năm 1623 Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đặt trạm thu thuế thương chính đầu tiên tại Sài Gòn và Bến Nghé. Đây là dấu hiệu ban đầu xuất hiện hình thức kiểm soát của nhà nước trên vùng đất Sài Gòn xưa.

Tháng 3 năm 1679 Chúa Nguyễn lại cho lập đồn binh Tân Mỹ (vùng chợ Thái Bình, quận I ngày nay). Quyền lực nhà nước của Chúa Nguyễn được áp đặt vào vùng đất mới phía Nam chuẩn bị cho việc hỉnh thành bộ máy cai trị. Cho đến thời điểm này, vùng đất mới phía Nam vẫn chưa phân định địa giới hành chánh. Song Sài Gòn đã giữ vị trí trung tâm vì quyền lực cai trị vùng đất phía Nam tập trung ở đây.

Nói về địa danh Sài Gòn

Tên Sài Gòn đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước, cách đây đã hơn 300 năm. Đó là tên gọi một vùng đất (địa danh) do cư dân Việt đặt ra để chỉ một khu vực đông dân cư sinh sống tập trung, sinh hoạt theo vùng đất đô thị ở vùng đất mới phía Nam.

Tên gọi "Sài Gòn" đã lần lượt để chỉ bốn vùng đất khác nhau. Thoạt đầu "Sài Gòn" dùng để chỉ đất của tiểu quốc Thù Nại, bao gồm phần lớn vùng đất Đông Nam bộ (khoảng 20.000 - 25.000km2). Năm 1698 tên Sài Gòn để chỉ vùng đất huyện Tân Bình rộng khoảng 5.000 km2, tính từ phía bờ tây sông Sài Gòn, một phần của xứ Sài Gòn ngày nay là địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. "Sài Gòn" còn là tên gọi của vùng đất của hai khu vực đô thị được bảo vệ bởi lũy Lão Cầm (1700), lũy Hoa Phong (1731) và lũy Bán Bích (1772) với diện tích khoảng 25 km2. Sài Gòn cũng là tên gọi của khu vực chợ buôn bán của người Hoa vào thế kỷ 18 (rộng khoảng 1km2), sau này trở thành khu Chợ Lớn.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm cả đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Chợ Lớn cũ, địa bàn thành phố rộng lớn hơn xưa, nhưng cũng chỉ là khu vực trung tâm của đất Gia Định xưa.

Sài Gòn buổi ban đầu

Năm 1698 là mốc lịch sử đánh dấu sự khai sinh vùng đất Sài Gòn xưa, khi Thống xuất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh Chúa Nguyễn vào Nam kinh lược lập ra phủ Gia Định để cai quản vùng đất mới phía Nam và lập ra hai huyện đầu tiên Phước Long và Tân Bình thuộc phủ Gia Định. Diện tích phủ Gia Định lúc này khoảng 30.000km2.

Huyện Tân Bình được lập ra từ xứ Sài Gòn với dinh Phiên Trấn và những đơn vị hành chánh cơ sở đầu tiên (lân, làng, phường, xã, thôn, ấp) là hình dáng Sài Gòn trong buổi ban đầu.

Sài Gòn thế kỷ 18

Trong suốt thế kỷ 18, thời Sài Gòn thuộc Gia Định phủ (1698-1802) thì địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày nay gồm địa phận hai tổng Bình Dương và Tân Long của huyện Tân Bình, (thuộc Dinh Phiến Trấn) và trên một nửa địa phận tổng Bình An (tức huyện Thủ Đức) của huyện Phước Long thuộc Dinh Trấn Biên. Năm 1795, Le Brun vẽ bản đồ vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn có ghi vị trí thành Bát Quái, các phố thị Minh Hương, Bến Nghé rồi đặt tên chung là Thành phố Sài Gòn. Có thể hình dung tổng quát vào cuối thời Gia Định phủ, địa bàn Thành Phố (nay) được phân biệt bởi hai vùng với hai bộ mặt khác nhau: vùng chợ nằm trong vòng "cổ lũy" và vùng quê đất rộng, thưa dân thuộc các tổng Bình Dương, Tân Long, Bình An.

Sài Gòn thời Gia Định Trấn và Gia Định Thành (1802-1832)

Sau khi chiến thắng Tây Sơn lấy lại kinh thành Phú Xuân - Huế (năm 1802), Nguyễn Ánh bỏ Gia Định kinh, đổi Gia Định phủ thành Gia Định trấn và đến năm 1808 lại đổi Gia Định trấn ra Gia Định thành, các "dinh" đều đổi thành "trấn". Gia Định thành thống quản năm trấn (toàn Nam Bộ). Dinh Phiên Trấn đổi thành trấn Phiên An. Huyện Tân Bình đổi thành phủ, 4 tổng của huyện Tân Bình nâng lên thành huyện lập ra nhiều tổng mới. Thời kỳ này địa bàn thành phố nay bao gồm địa phận của 2 tổng Bình Trị, Dương Hòa của huyện Bình Dương và 2 tổng Tân Phong, Long Hưng của huyện Tân Long (4 tổng trên đều thuộc phủ Tân Bình, trấn Phiên An), phần còn lại là địa phận của tổng An Thủy - Huyện Bình An và một phần của tổng Long Vĩnh - huyện Long Thành (thuộc phủ Phước Long - trấn Biên Hòa).

Từ sau 1820, dưới mắt của thương gia và phái bộ nước ngoài đã có một thành phố gồm hai đô thị lớn không kém gì kinh đô nước Xiêm ở cách nhau hai dặm, thành phố Sài Gòn (là Chợ Lớn nay) và thành phố Bến Nghé mới xây dựng. Họ gọi chung là thành phố Sài Gòn nơi đô hội cả nước lúc bấy giờ không đâu sánh bằng.

Sài Gòn thời Lục tỉnh Nam kỳ (1832-1862)

Từ sau năm 1832, Minh Mạng giải thể cấp Gia Định thành, chia năm trấn thành sáu tỉnh. Trấn Phiên An đổi thành tỉnh Phiên An, trấn Biên Hòa đổi thành tỉnh Biên Hòa.

Năm 1836, tỉnh Phiên An được đổi tên là tỉnh Gia Định có thêm một phủ mới là phủ Tây Ninh. Năm 1841, phủ Tân Bình lại lập thêm huyện Bình Long (lỵ sở tại Hốc Môn). Vì vậy, sau 1841, địa bàn thành phố (nay) nằm trên địa phận ba huyện Bình Dương, Bình Long, Tân Long (của phủ Tân Bình) và một phần đất của huyện Ngãi An và Long Thành thuộc phủ Phước Long tỉnh Biên Hòa.

Sài Gòn thời Pháp cai trị (1862-1955)

Địa bàn thành phố (nay) lúc này bao gồm địa giới của hai huyện Bình Dương, Tân Long của phủ Tân Bình, với phần đất đai của huyện Bình Long thuộc phủ Tây Ninh (tỉnh Gia Định) và cộng thêm trên một nửa địa phận huyện Bình An cùng với địa phận tổng Long Vĩnh Hạ, huyện Long Thành, cùng thuộc phủ Phước Long của tỉnh Biên Hòa.

Vùng đô thị Sài Gòn - Bến Nghé nằm trên đất của phủ Tân Bình, được xác lập ranh giới từ chùa Cây Mai đến rạch Thị Nghè, nằm trong kênh vành đai giáp tới sông Tân Bình (sông Sài Gòn nay) được qui hoạch là thành phố Sài Gòn (theo bản đồ Coffin năm 1862). Năm 1865 qui hoạch "Thành phố Sài Gòn" lại được chia thành hai thành phố: Thành phố Sài Gòn ở về phía Đông địa bàn thành phố cũ, tức vùng Bến Nghé xưa nơi có tỉnh thành Gia Định và thành phố Chợ Lớn, vùng trước đây gọi là "Phố thị Sài Gòn".

Sài Gòn thời kỳ 1956-1975

Trong khoảng 20 năm (1955-1975), thành phố Sài Gòn cũng có nhiều biến đổi. Từ năm 1956, đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành thủ đô chính quyền ở miền Nam, được quen gọi là đô thành Sài Gòn. Năm 1959, đô thành Sài Gòn được chia thành 8 quận hành chánh, mỗi quận chia ra nhiều phường. Tháng 12-1966, quận I thêm hai phường mới từ xã An Khánh (Gia Định) lập ra. Tháng 1-1967 tách hai phường mới của quận I (xã An Khánh cũ) lập thêm quận 9. Tháng 7-1969 lập thêm quận 10 và quận 11. Từ đấy đến năm 1975, đô thành Sài Gòn có 11 quận.

Tính đến trước ngày giải phóng (30-4-1975) thì địa bàn thành phố nay bao gồm 11 quận của đô thành Sài Gòn, toàn bộ địa phận tỉnh Gia Định, quận Củ Chi (tỉnh Hậu Nghĩa) quận Phú Hòa (tỉnh Bình Dương).

Sài Gòn sau ngày thống nhất đất nước

Sau ngày thống nhất, thành phố Sài Gòn - Gia Định trở thành Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn nhất của cả nước với tổng diện tích tự nhiên 1.295,5km2 bao gồm vùng nội đô Sài Gòn - Chợ Lớn với vùng ven đô và ngoại thành thuộc tỉnh Gia Định trước đây. Từ 11 quận nội thành được điều chỉnh lại còn 8 quận. Lập ra 4 quận mới: Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh (từ hai xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây), Tân Bình (từ xã Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì cũ). Diện tích các quận nội thành và ven đô là 142,7 km2 chia ra 267 phường. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè với tổng diện tích tự nhiên 1.152,8 km2 chia ra 77 xã.

Năm 1978, thành phố tiếp nhận thêm hai huyện Duyên Hải (nay đổi Cần Giờ - là quận Quản Xuyên và Cần Giờ trước đây) của tỉnh Đồng Nai; Nhờ vậy diện tích mở rộng thêm 714km2 và có bờ biển dài 15km. Huyện Cần Giờ rộng lớn nhưng chỉ có 39.000 dân (59 người/km2) sống rải rác trên 7 xã. Đây là nơi đời sống dân cư rất khó khăn, lúc đầu không có điện, không có nước ngọt, không có đường bộ...

Năm 1979, sau khi điều chỉnh đơn vị hành chánh cấp cơ sở, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Đến năm 1989 thành phố điều chỉnh lại còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Năm 1997, sau đợt điều chỉnh tháng 4, toàn thành phố có 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn.

( Bài biên khảo này chỉ đến năm 1997)

aulachongvn
30-07-2012, 10:24 AM
Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt TP.HCM,) là thành phố lớn nhất và là trung tâm thương mại và kinh tế quan trọng của Việt Nam, với gần 8,5 triệu dân. Thành phố Hồ Chí Minh được được thành lập năm 1976 trên cơ sở thành phố đô thành Sài Gòn và sát nhập thêm 2 đơn vị hành chính khác là Chợ Lớn và tỉnh Gia Định.

Sự kiện 30 tháng 4, 1975, thường được gọi là 30 tháng tư hay ngày giải phóng miền Nam (tên gọi tại Việt Nam) hay ngày miền Nam sụp đổ (trong báo chí Tây phương gọi là Sài Gòn sụp đổ, Fall of Saigon), là sự kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của chiến dịch mùa xuân năm 1975 và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Sau Hiệp định Paris tinh thần và khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hoà suy giảm nghiêm trọng nhất là sau khi Nixon từ chức vì vụ Watergate, vào tháng 8 năm 1974. Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm nhiều tiền cho chiến trường Việt Nam. Giữa tháng 3 năm 1975, sau hai năm ký hiệp định đình chiến, quân đội Bắc Việt và Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột thất thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của quân đội Nam Việt Nam và là khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng lần lượt thất thủ.

Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của Quân đội Nhân dân Việt Nam từ phía bắc tiến vào và quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, lần lượt các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà rơi vào tay quân đội Bắc Việt Nam.

dangquang1
30-07-2012, 10:24 AM
Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 quân Giải phóng định đánh chiếm thị xã Xuân Lộc tỉnh Long Khánh trên hành tiến - tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của Nam Việt Nam đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.

Ngày 21 tháng 4 quân phòng thủ bỏ Xuân Lộc rút lui. Ngày Xuân Lộc thất thủ, không còn gì để cứu vãn nữa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức để người khác đàm phán với Cộng sản. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Cộng sản không chấp nhận nói chuyện với ông ta. Với việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn không còn phòng thủ từ xa nữa, quân Giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi.

Để đảm bảo áp đảo chắc thắng Quân đội Nhân dân Việt Nam đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tầu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn với 5 quân đoàn.

17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.

Đến cuối ngày 28 tháng 4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng tại tất cả các hướng, quân Giải phóng có thể đi ngay vào thành phố. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.

Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các tàu sân bay ngoài khơi lính thuỷ đánh bộ Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác sâu sắc với họ. Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn rất nhiều người muốn ra đi mà không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng trở nên hỗn loạn. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã rất vất vả mới duy trì được trật tự, họ dùng sức mạnh thô bạo gạt phăng các bạn đồng minh cũ đang trong cơn hoạn nạn. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người bạn lâu năm của mình. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Để không gây các rắc rối với Hoa Kỳ, tránh động chạm đến tự ái dân tộc của họ, quân Bắc Việt dừng lại bên ngoài thành phố 1 ngày để cho người Mỹ di tản hết thì họ mới vào.

8 giờ sáng 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn phương ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền. Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến nhanh vào Sài Gòn không gặp kháng cự có tổ chức.

10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng mang số hiệu 390 của quân giải phóng đã húc tung cổng chính của Dinh Độc Lập, tiến thẳng vào dinh. Tiếp theo đó là xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ tiến vào.

11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận - Đại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên.

Cùng lúc này, Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng. Các sĩ quan Cộng sản đưa ông Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh kết thúc.

KẾT Quả:
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:

* Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của kéo dài 30 năm. Việt Nam bắt đầu bước vào một thời kỳ mới.
* Kết thúc sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Cộng hòa, đưa Việt Nam nằm hoàn toàn dưới sự lãnh đạo của những người Cộng sản. Sự kiện này đã ngã ngũ sự thất bại của phía Quốc gia trong cuộc đấu tranh Quốc gia - Cộng sản tại Việt Nam.
* Sự kiện này chấm dứt giai đoạn các cường quốc thế giới can thiệp trực tiếp vào Việt Nam.
* Trên phương diện quốc tế, sự chấm dứt Chiến tranh Việt Nam với thắng lợi của Cộng sản đánh dấu sự thắng thế của phe Cộng sản trên thế giới trong thập niên 1970 và kết quả là một loạt các phong trào Cộng sản và thân Cộng sản thắng thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh hướng tới mục tiêu Cộng sản.
* Là điều kiện để thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp thương chính trị của đại biểu Miền Bắc và Miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975, ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi chiến tranh và thực sự trở thành quốc gia thống nhất về chính trị.