View Full Version : 2/9 lịch sử
myduco
30-07-2012, 10:22 AM
Ngày 2/9/1945 là một cột mốc đáng nhớ của dân tộc Việt Nam. Chúng ta hãy nói về ngày này nhé!
thienphuong
30-07-2012, 10:22 AM
ngày 2/9 là 1 kết quả của những ngày CMT8 1945 ... cứ mmỗi lần tới những ngày này thì ....
nói chung cảm nghĩ của tui là như vầy .... http://buithixuan.info/forum/index.php?sho...t=0&#entry64792 (http://buithixuan.info/forum/index.php?showtopic=3546&pid=64792&st=0&#entry64792)
lesen.dv
30-07-2012, 10:22 AM
Lịch sử
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp từ giữa thế kỷ 19. Trong Đệ nhị thế chiến, Nhật Bản đã thay Pháp chiếm đóng Việt Nam từ năm 1940. Khi Nhật Bản thua quân Đồng Minh giữa năm 1945, Việt Nam có cơ hội lớn lấy lại độc lập. Cơ hội này đã được Việt Minh tận dụng.
Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ Lâm thời ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.
Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh mời một số đồng chí đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc lập do ông soạn thảo.
Ngày 31 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên ngôn độc lập.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trong cuộc mít tinh trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, tại vườn hoa Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguyên văn
Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
hanhphucbichtrang
30-07-2012, 10:22 AM
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập 2/9 (01/09/2005 10:39)
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. ở Người - một trong những tố chất quan trọng bậc nhất sáng ngời là tư tưởng nhân văn, dòng hợp lưu trí tuệ của nhân loại.
Ngày 28/8/1945 trên căn gác hai của nhà số 48 Hàng Ngang (Hà Nội), Bác Hồ bắt đầu dự thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập. Sau này Bác nói: "Đó là những giây phút sung sướng nhất của đời mình". Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ở Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2/9/1945 không chỉ có ý nghĩa đối với nền độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Bản Tuyên ngôn Độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 đã đánh dấu mốc son lịch sử chói lọi của dân tộc, độc lập và tự do, dân chủ cho nhân dân. Mọi người được bình đẳng, bác ái, được sống, tự do và tìm được hạnh phúc, đó là những từ ngữ đ‹p với nội hàm chất chứa những nội dung nhân văn lớn và sâu sắc mà hàng triệu triệu người mong đợi.
Tuyên ngôn Độc lập 2/9 được bắt đầu với một định đề triết học nhân văn dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc". Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: suy rộng ra câu y có nghĩa là: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Kế tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng trích bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, một Nhà nước ra đời trước hết là đảm bảo tính lập hiến, cho nên ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á, đặt nền móng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một trong sáu vấn đề cấp bách hơn cả của chính quyền cách mạng là: "Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội với chế độ phổ thông đầu phiếu". Ngày 6/1/1946, tất cả công dân Việt Nam, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, chính kiến... từ 18 tuổi trở lên đã tham gia cuộc Tổng tuyển cử tự do lựa chọn người đại diện cho mình vào Quốc hội - cơ quan quyền lực tối cao có quyền lập hiến, lập pháp.
Hơn một năm sau dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá I, đã thảo luận dân chủ và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đầu tiên ở Đông Nam á, làm nền tảng pháp lý vững chắc, luật cơ bản của Nhà nước dân chủ nhân dân. Đây là đạo luật đầu tiên khẳng định "Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể chia cắt" (Điều 2 Hiến pháp năm 1946). "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam..." (Điều 1 Hiến pháp năm 1946)
Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Bác nói "...nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì". Do vậy, ngay trong những năm tháng đầy thử thách, gian nan như "nghìn cân treo sợi tóc", Bác thường sử dụng "dĩ bất biến, ứng vạn biến" để làm phương châm chỉ đạo cách mạng. Cụm từ "bất biến" theo Bác, đó là "lòng dân". Từ "lòng dân" là chúng ta có mọi lực lượng, sức mạnh để "ứng vạn biến"! Và thực hiện di huấn của Người, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam đã tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh chống hai "đế quốc to" Pháp và Mỹ, giành lại thống nhất đất nước.
60 năm trôi qua, tư tưởng nhân văn, tư tưởng vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 trở thành sức mạnh trí tuệ, đến ngay những kẻ thù thực dân xâm lược cũng phải tôn kính, cảm phục; tranh thủ được sự đồng tình của các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, về với cội nguồn dân tộc, với lẽ sống cao đẹp. Hơn thế nữa, tố chất nhân văn đã giúp Bác tập hợp và lập ra Nhà nước gồm những nhà trí thức trên nhiều lĩnh vực của quốc gia lúc bấy giờ. Đây chính là sự toả sáng của lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc, lòng yêu nước thương dân, niềm khát khao độc lập, tự do của cả dân tộc.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 vang vọng mãi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thể hiện rõ chân lý chính nghĩa, pháp lý đanh thép và đạo lý cao cả của dân tộc Việt Nam giành độc lập, tự do. ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập đã khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
TBTC 105
mtcorp
30-07-2012, 10:22 AM
Hồ Chí Minh và ngày 2 tháng 9 trong hồi ký của một người bạn nước ngoài
Ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên với Hồ Chí Minh, Patti đã có một ấn tượng sâu sắc và một cảm tình đặc biệt trước trí tuệ uyên bác và phong cách ngoại giao giản dị mà đầy sức thuyết phục của Hồ Chí Minh.
Là một trong những người luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi như những người bạn chân thành và thân thiết, Archimedes L.A Patti đã mô tả chi tiết và sinh động về buổi lễ Độc lập 2/9/1945 mà ông được tham dự trong thiên hồi ký "Why Viet Nam".
Là một sĩ quan tình báo, một quân nhân Mỹ, nhưng Patti lại có một cái nhìn đúng đắn về Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian ở Hà Nội, Patti đã có những hành động thiết thực để thể hiện cảm tình của mình (tình cảm đó đã đi suốt cuộc đời ông và đã được ông thể hiện trong những trang viết của cuốn hồi ký "Why Viet Nam?", trong Tham luận tại Hội thảo Quốc tế về "Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới" do UNESCO tổ chức tại Hà Nội, năm 1990 và trong những lần đến Việt Nam để gặp một người bạn mà ông rất kính trọng là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hay nhận chuyển giúp một số thư điện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Mỹ. Chính vì vậy, Patti đã dành được sự thân thiện và tình cảm đặc biệt của những nhà cách mạng Việt Nam, nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dù vô cùng bận rộn, nhưng Người đã dành nhiều thời gian để trao đổi, tâm sự với Patti và thực sự coi Patti như một người bạn.
Trước ngày Lễ Độc lập, chính Patti là người được Chủ tịch Hồ Chí Minh cho xem và trao đổi ý kiến về nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo. Ngày 2/9/1945, cùng với nhóm công tác của mình, Patti đã có mặt tại Quảng trường Ba Đình và đã miêu tả một cách chi tiết, sinh động và hấp dẫn về sự kiện lịch sử này trong những trang viết của thiên hồi ký "Why Viet Nam" (Tại sao Việt Nam): ...Ngày chủ nhật đầu tiên trong tháng Chín là ngày lễ các thánh tử vì đạo của riêng hơn một triệu dân theo Thiên Chúa giáo ở Bắc Việt Nam. Có thể cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh đã chọn ngày đó làm Ngày Lễ Độc lập. Tại các nhà thờ Thiên Chúa giáo, cũng như các nhà chùa Phật giáo, buổi lễ vẫn tiến hành long trọng, các bài thuyết pháp có thêm ý nghĩa chính trị ủng hộ chính phủ mới thành lập và nền độc lập của Việt Nam.
Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội tưng bừng, từng đoàn lớn kéo về Quảng trường Ba Đình. Ở nhiều chỗ là một khối dân chúng các làng ngoại ô. Đi theo trong biển người đó, có cả những tốp người miền núi với y phục địa phương của họ và nông dân trong những bộ khăn áo cổ truyền. Giữa các khối khác nhau, người ta dễ dàng nhận ra các tổ chức của công nhân, sơ mi trắng, quần dài hoặc quần soóc trắng hoặc xanh. Phụ nữ mặc áo dài trắng hay mầu sáng, tay khoác nón.
Có nhiều khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, Anh, một số bằng tiếng Việt Nam: "Việt Nam của người Việt Nam", "Thà chết, chứ nhất định không chịu làm nô lệ"...
Trong khi chờ đợi Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo, tôi nhìn thấy một số cố đạo Thiên chúa giáo mặc áo thầy tu trắng và xanh đen, có cả chức sắc mang khăn quàng và dải viền đỏ.
... Cách họ không xa, là các nhà sư Phật giáo khoác cà sa mầu da cam, rồi đến các chức sắc Cao Đài, áo dài trắng có tua và khăn quàng sặc sỡ.
Đội danh dự và công tác bảo vệ được giao cho bộ đội bảo vệ của Tướng Võ Nguyên Giáp và Chu Văn Tấn, lực lượng được huấn luyện, trang bị, có kỷ luật. Mũ bấc, đồng phục kaki, quần soóc, tất cao, các vũ khí mới được trưng bày một cách hãnh diện, lúc trong tư thế "đứng nghiêm", lúc "nghỉ". Ở đó còn có các đơn vị tự vệ dân quân, mặc lẫn lộn quần áo nhà binh Pháp hoặc Nhật hoặc quần áo ngắn xanh hay đen, mang theo mọi loại vũ khí cũng lộn xộn từ súng kíp, gươm, dao rựa, mã tấu có cán gỗ dài và cả gậy tày... Tất cả dựng lên một cảnh tượng hào khí đến kinh ngạc.
Mặt trời đã lên cao. Không khí oi bức, nhưng đôi lúc cũng có cơn gió nhẹ thổi làm phất phới cả cái biển cờ trên quảng trường. Cao trên cột trước lễ đài, lá cờ đỏ với ngôi sao vàng lớn phấp phới bay.
Bất chợt có tiếng còi và các hiệu lệnh quân sự phát ra từ các đội hình. Đội danh dự và các đơn vị bộ đội đứng thẳng và chăm chú theo dõi khi có người đã bắt đầu xuất hiện trên lễ đài. Mấy phút sau, nổi lên tiếng hô "Bồng súng chào!". Quần chúng bỗng im lặng trong khi các vị lãnh đạo tìm chỗ đứng vào đường sau cái bao lơn được trang trí bằng mầu trắng và đỏ. Trên lễ đài, mọi người đều bận đồ trắng, thắt cavát và để đầu trần, trừ một người nhỏ nhắn mặc áo kaki mầu sẫm và có cái gì như cái khăn trùm đầu - Đó là Hồ Chí Minh.
Một tiếng trong loa phóng thanh nổi lên phá vỡ sự im lặng, giới thiệu Hồ Chí Minh" là người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc". Quần chúng được sự hướng dẫn của các đảng viên, lên tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang "Độc lập". Hồ Chí Minh đứng yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong vóc dáng, nhưng vĩ đại trong sự hoan hô của nhân dân Việt Nam. Người giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn, nay trở thành nổi tiếng với những lời: "Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho chúng ta những quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và quyền được hưởng hạnh phúc".
Hồ Chí Minh dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: "Đồng bào có nghe rõ tôi không?". Quần chúng hô vang đáp lại: "Rõ!". Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy! Từ lúc đó, quần chúng nắm lắng lấy từng lời. Chúng tôi không hiểu Hồ Chí Minh đã nói gì. Lê Xuân phải cố gắng lắm để dịch nhưng cũng rất khó khăn. Nhưng cứ nghe giọng nói của Hồ Chí Minh, bình tĩnh và rõ ràng, ấm cúng và thân mật, và nghe thấy được quần chúng trả lời thì chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa là những lời của người đã thấu tới quần chúng.
Sau đó, quay về bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp 1791, nói về quyền con người và quyền công dân, Hồ Chí Minh nói Bản Tuyên ngôn đã công bố: mọi người sinh ra phải được tự do và có quyền bình đẳng. Đó là những chân lý không thể chối cãi được.
Đến khoảng 2h, Hồ Chí Minh kết thúc bản Tuyên ngôn và tiếp sau đó là Võ Nguyên Giáp nói về vai trò của Việt Minh, nhấn mạnh vào công tác của Đảng trong lĩnh vực chính trị - quân sự, phát triển kinh tế - xã hội, chương trình giáo dục và văn hóa... Sau bài diễn văn các Bộ trưởng mới được chỉ định, từng người một được giới thiệu ra mắt nhân dân. Buổi lễ kết thúc bằng việc các Bộ trưởng tuyên bố nguyện trung thành và triệt để ủng hộ Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đầu tháng 10/1945, cơ quan OSS đã bị Tổng thống Truman giải thể, Archimedes L.A. Patti bị triệu hồi về Mỹ. Trước khi Patti lên đường, tối ngày 31/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Patti dự bữa tiệc chia tay và dành cả buổi tối hôm đó để trò chuyện và tâm sự cùng Patti, một con người luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quý mến và thực sự coi như một người bạn chân thành và thân thiết. Cuộc chia tay đã để lại trong hồi ức của Patti những ấn tượng không thể phai mờ. Ông kể rằng: "Hồ Chí Minh tiễn tôi ra tận cửa ngoài, cảm ơn tôi đã tới và chịu nghe ông "diễn thuyết". Ông đặt hai tay lên vai tôi "Bon voyage (Chúc lên đường may mắn), mong sớm quay trở lại, lúc nào ông cũng được chúng tôi hoan nghênh". Khi xe tôi nổ máy, tôi nhìn lại vẫn thấy bóng nhỏ nhắn của người ở cửa, vẫy chào tạm biệt. Tôi lại sực nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi trong một tiệm trà ở Chiu Chou Chieh. Hồ Chí Minh - người hiện ra mong manh đấy nhưng thực tế thật là bất khuất".
tv20b68
30-07-2012, 10:22 AM
Mít-tinh trọng thể kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9
--------------------------------------------------------------------------------
Sáng 1-9, tại Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt - Xô, Thành ủy, HÐND, UBND, Ủy ban MTTQ thành phố Hà Nội long trọng tổ chức Lễ mít-tinh kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Ðến dự, có Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh; nguyên Tổng Bí thư: Ðỗ Mười, Lê Khả Phiêu; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết; nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Chủ tịch QH Nguyễn Văn An; Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch UBT.Ư MTTQ Việt Nam Phạm Thế Duyệt; Ðại tướng Võ Nguyên Giáp; các ủy viên Bộ Chính trị, bí thư T.Ư Ðảng; các cán bộ lão thành cách mạng; các ủy viên T.Ư Ðảng, các tướng lĩnh quân đội, đại diện các bộ, ban, ngành và đoàn thể T.Ư.
Về phía Hà Nội, có ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy; các vị lãnh đạo thành phố các thời kỳ cách mạng, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, đại biểu là nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ; đại diện các tôn giáo, đại biểu lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân thủ đô.
Mở đầu Lễ mít-tinh, Nhà hát ca múa Thăng Long biểu diễn chương trình ca múa nhạc đặc sắc với những bài hát ca ngợi đất nước, ca ngợi Ðảng quang vinh, Bác Hồ kính yêu, gợi lên không khí hào hùng Mùa Thu Cách mạng.
Ðọc diễn văn tại Lễ mít-tinh, thay mặt Thành ủy, HÐND, UBND, MTTQ thành phố Hà Nội, ông Phạm Quang Nghị nêu rõ: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng mang tầm vóc lịch sử to lớn và có tính nhân dân, tính thời đại sâu sắc. Cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập - tự do và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Ðảng, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước ta không những trở thành một nước độc lập, tự do mà còn trở thành một trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH.
Ðiểm lại những thành tựu của thủ đô và đất nước trong 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, ông Phạm Quang Nghị khẳng định: Với sự nỗ lực của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Ðất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên, tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta tiếp tục đi lên với một triển vọng tốt đẹp.
Về những nhiệm vụ của thủ đô trong thời gian tới, ông Phạm Quang Nghị nhấn mạnh: Năm năm tới là chặng đường đặc biệt quan trọng đối với thủ đô. Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội quyết tâm tổ chức quán triệt sâu rộng, thiết thực, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng và Nghị quyết Ðại hội lần thứ 14 Ðảng bộ thành phố, triển khai tổ chức thực hiện chín chương trình công tác lớn và ba cụm công trình trọng điểm của thủ đô.
Ðẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2006. Trong đó, trọng tâm là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, khắc phục những yếu kém, cải thiện khả năng thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong nước và đầu tư nước ngoài, chủ động tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ðẩy mạnh cải cách hành chính, coi đây là một trong những khâu đột phá, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết tốt đời sống dân sinh, nâng cao năng lực và làm lành mạnh bộ máy chính quyền các cấp, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục tổ chức triển khai Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, quyết tâm đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xây dựng Ðảng bộ và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công tác quản lý trật tự, kỷ cương đô thị, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao, xây dựng thủ đô xanh, sạch, đẹp, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ phục vụ Hội nghị cấp cao diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), tạo nên một hình ảnh thủ đô Hà Nội đẹp - văn minh - thanh lịch trong con mắt bạn bè quốc tế.
Tự hào với truyền thống vẻ vang của Thủ đô Anh hùng, nghìn năm văn hiến và thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Ðảng bộ và nhân dân thành phố Hà Nội quyết tâm đoàn kết một lòng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo xây dựng thủ đô phát triển toàn diện, bền vững, thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, thực hiện thật tốt Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh "Làm cho thủ đô ta ngày càng thêm tươi đẹp, phồn thịnh và trở nên một thành phố gương mẫu cho cả nước".
Tại Lễ mít-tinh, ông Nguyễn Quốc Triệu, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội phát động đợt thi đua chào mừng kỷ niệm 52 năm Ngày giải phóng thủ đô, Hội nghị cấp cao APEC và 60 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến. Ðồng chí Nguyễn Hữu Chí, Chủ tịch UBND phường Vĩnh Phúc (quận Ba Ðình) phát biểu hưởng ứng đợt thi đua.
Lễ mít-tinh kết thúc trong tiếng hát vang bài "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng".
* Sáng 1-9, Thành ủy, HÐND, UBND, Ủy ban MTTQ TP Hồ Chí Minh tổ chức mít-tinh trọng thể kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Ðến dự, có các ông: Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy; Lê Hoàng Quân, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chủ tịch UBND thành phố; đại diện lực lượng vũ trang, các ban, ngành, quận, huyện, các vị lão thành cách mạng, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, nhân sĩ, trí thức cùng đông đảo đại biểu các tầng lớp nhân dân thành phố.
Ông Lê Hoàng Quân đọc diễn văn ôn lại ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước kiểu mới của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng; nêu rõ quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường, thắng lợi vẻ vang của nhân dân thành phố trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, những thành tựu của Ðảng bộ và nhân dân thành phố đạt được từ sau ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước đến nay.
Ông Lê Hoàng Quân nhấn mạnh: Ba mươi mốt năm qua, thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị. Hệ thống chính trị được củng cố và ngày càng phát huy hiệu lực, hiệu quả. Ðảng bộ và các tầng lớp nhân dân thành phố đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phấn đấu bền bỉ, năng động, vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, không ngừng tiến lên trên con đường đổi mới...
Từ thực tiễn sinh động cùng với truyền thống nhạy bén, năng động, sáng tạo, Ðảng bộ và nhân dân thành phố đã thực hiện thí điểm nhiều cách làm mới, chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của cơ chế cũ, cùng với nhiều địa phương khác góp phần cùng cả nước hình thành đường lối đổi mới về kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. TP Hồ Chí Minh cũng là nơi xuất phát nhiều phong trào xã hội và từ thiện với những kết quả đáng ghi nhận như phong trào đền ơn đáp nghĩa, chương trình xóa đói, giảm nghèo, chương trình mục tiêu ba giảm...
Năm 2006 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng, kế hoạch 5 năm (2006 - 2010) và Nghị quyết Ðại hội lần thứ 8 Ðảng bộ thành phố. Với ý chí và quyết tâm cao, trong những tháng qua, toàn bộ Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố ra sức thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2006; các sở, ngành, quận, huyện tập trung thực hiện năm chương trình và công trình mang tính đòn bẩy: chương trình cải cách hành chính, chống quan liêu, chống tham nhũng, chống lãng phí và thực hành tiết kiệm; chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chương trình nhà ở; công trình khu công nghệ cao; công trình khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Tại lễ mít-tinh, Bí thư Thành đoàn Tất Thành Cang thay mặt tuổi trẻ thành phố, phát biểu ý kiến bày tỏ niềm tự hào về giá trị truyền thống của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, nguyện sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng, Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ thành phố lần thứ VIII, xứng đáng là những công dân trẻ TP Hồ Chí Minh - thành phố Anh hùng.
* Nhân dịp này, Ban Thường vụ Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã quyết định trao Huy hiệu Ðảng tặng 750 đồng chí có tuổi Ðảng từ 40 đến 70, trong đó có một đồng chí 70 tuổi Ðảng, 107 đồng chí 60 tuổi Ðảng, 95 đồng chí 50 tuổi Ðảng và 547 đồng chí 40 tuổi Ðảng.
* Sáng 1-9, Ðảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức trọng thể kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Trung tướng Lê Mạnh, Tư lệnh Quân khu; Thiếu tướng Nguyễn Thành Cung, Ủy viên T.Ư Ðảng, Chính ủy Quân khu, cùng các tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ dự mít-tinh.
Chính ủy Quân khu Nguyễn Thành Cung đã ôn lại những ngày lịch sử hào hùng Tháng Tám - mùa thu 1945 cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền theo lời kêu gọi của Bác Hồ, đưa dân tộc ta, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do.
* Ngày 1-9, Tỉnh ủy, HÐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức đoàn đại biểu các tầng lớp nhân dân dâng hoa tưởng niệm và báo công lên Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Chi nhánh Thừa Thiên - Huế.
* Tại Quảng Trị, các vị lãnh đạo và đại diện các tầng lớp nhân dân địa phương dâng hương viếng các anh hùng liệt sĩ tại hai nghĩa trang quốc gia Trường Sơn và Ðường 9.
* Tỉnh ủy, HÐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh Quảng Bình tổ chức lễ viếng các anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang Ba Dốc.
Nhân dịp này, tại các địa phương nói trên đã có nhiều hoạt động sôi nổi thiết thực chào mừng ngày Quốc khánh thi đua lao động sản xuất, khánh thành các công trình có ý nghĩa quan trọng với đời sống nhân dân, triển khai các hoạt động uống nước nhớ nguồn, chăm lo các đối tượng chính sách, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng từ thành thị đến vùng sâu, vùng xa.
* Chiều 1-9, tại Hải Phòng, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã mít-tinh trọng thể kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Phó Ðô đốc Nguyễn Văn Tình, Chính ủy Quân chủng Hải quân đọc diễn văn nêu rõ ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám đối với dân tộc ta và phong trào cách mạng thế giới. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ kính yêu, dân tộc ta đã vượt qua những cuộc trường chinh vĩ đại, bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám và xây dựng nước Việt Nam ngày càng hùng cường.
* Sáng 1-9, Thành ủy, HÐND, UBND, Ủy ban MTTQ thành phố Hải Phòng tổ chức họp mặt kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 với hàng trăm đại biểu đại diện các ban, ngành thành phố, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, các đồng chí lão thành cách mạng... Ðồng chí Trịnh Quang Sử, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố đọc diễn văn, nêu rõ: Trong thời khắc lịch sử của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Ðảng bộ thành phố, nhân dân thành phố Cảng nhất tề đứng lên khởi nghĩa, giành chính quyền thắng lợi ngày 23-8-1945 ở Hải Phòng và ngày 24-8-1945 ở Kiến An, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
* Sáng 1-9, lãnh đạo Tỉnh ủy, HÐND, UBND, MTTQ và đại diện các tầng lớp nhân dân tỉnh Bình Thuận đã đến nghĩa trang liệt sĩ tỉnh đặt vòng hoa, thắp hương tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì nền độc lập của đất nước. Tiếp đó, các đoàn đại biểu đến Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận dâng hương viếng Bác Hồ. Sáng cùng ngày, Thành ủy, HÐND, UBND, MTTQ thành phố Phan Thiết tổ chức mít-tinh ôn lại truyền thống vẻ vang trong chặng đường 61 năm qua.
* Tỉnh Ðồng Nai đã tổ chức mít-tinh kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Tham dự có đồng chỉ Trần Ðình Thành, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HÐND tỉnh và gần 700 đại biểu. Ðọc diễn văn tại cuộc mít-tinh, đồng chí Nguyễn Phú Cường, Phó Bí thư, Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa đã nêu lên ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám của cả nước và của TP Biên Hòa, khẳng định sự lãnh đạo của Ðảng đối với Cách mạng Việt Nam.
* Sáng 1-9, sau khi viếng, đặt vòng hoa và thắp hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ tỉnh, Tỉnh ủy, HÐND, UBND và Ủy ban MTTQ tỉnh Tiền Giang đã tổ chức mít-tinh kỷ niệm 61 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Ðồng chí Nguyễn Hữu Chí, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã đọc diễn văn ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc, những mốc son chói lọi của sự nghiệp cách mạng do Ðảng lãnh đạo, và truyền thống của địa phương qua các chặng đường, từ đó đúc kết những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp CNH - HÐH.
* Sáng 1-9, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Trà Vinh đã tổ chức hai đoàn về thăm vùng căn cứ kháng chiến ở xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải và xã Phước Hưng, huyện Trà Cú. Ðây là những nơi đã từng đùm bọc, nuôi giấu cán bộ cách mạng qua các thời kỳ và sớm xây dựng được phong trào đấu tranh sôi nổi trong những ngày Cách mạng Tháng Tám. Tại đây, ngoài việc tổ chức họp mặt với các gia đình có công với nước, thăm hỏi, ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng của Ðảng, quân, dân, còn diễn ra các hoạt động như trao tặng nhà tình nghĩa, khám chữa bệnh cho dân, trao học bổng, tặng quà cho học sinh nghèo nhân đầu năm học mới... Tại Ðền thờ Bác Hồ ở xã Long Ðức, thị xã Trà Vinh, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tổ chức lễ Giỗ Bác Hồ. Ðây một trong những hoạt động đã trở thành truyền thống được tổ chức đều đặn hằng năm.
watermandanang
30-07-2012, 10:22 AM
Hiểu thêm về ngày Lễ độc lập 2-9-1945 và bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giành độc lập và giành chính quyền đã thắng lợi trên cả nước. Ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc Việt Nam kỷ nguyên dân tộc được độc lập, nhân dân được hưởng quyền tự do, hạnh phúc, làm chủ đất nước và xã hội, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Một trong những tư tưởng nổi bật của Tuyên ngôn là đặt lên hàng đầu quyền của mỗi dân tộc được hưởng độc lập, tự do. Mở đầu Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã dẫn lời bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phú”. Theo Hồ Chí Minh: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ quyền của mọi người trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Hồ Chí Minh đi đến khẳng định quyền của mỗi dân tộc là hoàn toàn đúng đắn cả trong nhận thức và hiện thực lịch sử. Hồ Chí Minh coi quyền dân tộc là cái cơ bản có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền con người. Một dân tộc còn bị áp bức, bị nước khác thống trị, nhân dân còn phải sống trong nô lệ và bị bóc lột thì không thể nói đến quyền con người. Hồ Chí Minh còn đề cập tới bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của cách mạng Pháp “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn bình đẳng về quyền lợ”. Người khẳng định những điều mà nước Mỹ và nước Pháp nêu ra trong Tuyên ngôn là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Một người Mỹ, ông Archimedes L.A.Patti người có mặt trong lúc Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn độc lập, đã kinh ngạc khi thấy Hồ Chí Minh dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và thấy trật tự các chữ “tự do” và “quyền sống” đã được thay đổi. L.A.Patti hỏi Hồ Chí Minh vì sao lại dẫn câu đó trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Hồ Chí Minh nhẹ nhàng hỏi lại: “Tôi không thể dùng câu ấy được à?”. L.A.Patti trả lời “tại sao lại không”. Về trật tự các từ “tự do” và “quyền sống” đã được đảo vị trí, Hồ Chí Minh nói: “Đúng, không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do”. L.A.Patti đã khẳng định: “Tôi đã phải trình bày là không biết gì hơn và đúng là như vậy”.
Chính vì thế Hồ Chí Minh nhấn mạnh dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gắn liền với Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, là hoàn toàn mới mẻ và cũng là khát vọng cao cả mà dân tộc Việt Nam đã giành được và quyết tâm bảo vệ. L.A.Patti trong cuốn sách của mình còn mô tả lại ngày Lễ độc lập của Việt Nam 2-9-1945 mà ông có mặt. Ông viết: “Một tiếng trong loa phát thanh nổi lên phá vỡ sự im lặng, giới thiệu ông Hồ là người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc. Quần chúng được hướng dẫn của các đảng viên, cất tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang “Độc lập”. Ông Hồ đứng yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm cỡ, nhưng vĩ đại trong sự hoan hô của nhân dân ông. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản tuyên ngôn... Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: “Đồng bào có nghe rõ tôi không?”. Quần chúng hô vang đáp lại: “Rõ”. Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy. Từ lúc đó, quần chúng lắng nắm lấy từng lời. Chúng tôi không hiểu ông Hồ đã nói gì. Lê Xuân phải cố gắng lắm để dịch nhưng cũng rất khó khăn. Nhưng cứ nghe giọng nói của ông Hồ, bình tĩnh và rõ ràng, ấm cúng và thân mật và nghe thấy được quần chúng trả lời thì chúng tôi không còn nghi ngờ nữa là lời ông đã thấu tới quần chúng”.
Vẫn theo ông L.A.Patti “Đến khoảng hai giờ, ông Hồ kết thúc bản tuyên ngôn và tiếp sau đó là Võ Nguyên Giáp nói về vai trò của Việt Minh, nhấn mạnh vào công tác của Đảng trong lĩnh vực chính trị - quân sự, phát triển kinh tế xã hội, chương trình giáo dục và văn hoá”. Võ Nguyên Giáp đề cập tới quan hệ đối ngoại, nhấn mạnh quan hệ với Mỹ và Trung Quốc. Tiếp đó các bộ trưởng mới được chỉ định, từng người một được giới thiệu ra mắt nhân dân. Buổi lễ kết thúc bằng việc các bộ trưởng tuyên bố nguyện trung thành và triệt để ủng hộ Chính phủ Dân chủ Cộng hoà lâm thời Việt Nam.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án chế độ thực dân, phát xít đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Chúng độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng, chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Tuyên ngôn nêu rõ: từ mùa thu 1940, phát xít Nhật xâm chiếm nước ta, thực dân Pháp đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật. Ngày 9-3-1945 Nhật gạt Pháp để độc chiếm nước ta. "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”.
Với cuộc đấu tranh chính nghĩa giành những quyền dân tộc cơ bản, dân tộc Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám lịch sử. “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Đó là sự khẳng định đanh thép quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của dân tộc Việt Nam cũng như quyền của các dân tộc khác trên thế giới. Kết thúc, bản Tuyên ngôn nêu rõ: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Từ quyền của mọi người, của mỗi người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới đó là điểm đặc sắc trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam 2-9-1945. Điều đó khẳng định một thực tế là khi chưa giành được những quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thì không thể thực hiện được những quyền con người. Một chân lý lớn của thời đại là mọi dân tộc phải được sống trong độc lập, tự do và mọi người có quyền sống trong ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện bản thân mình. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ra sức phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó là sự thống nhất, hoà quyện quyền dân tộc cơ bản và quyền con người mà cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập đã trịnh trọng tuyên bố.
grdoor
30-07-2012, 10:22 AM
Bài học lớn từ cuộc cách mạng lớnĐiểm lại từ khi có chính sử, bắt đầu là một nghìn năm nước ta chìm đắm trong nô lệ. Trong thiên niên kỷ đau thương ấy, có không ít các cuộc vùng lên giành quyền tự chủ như các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Phùng Hưng, Mai Hắc đế, Lý Nam đế… nhưng dù sao, đấy vẫn chỉ là những tia chớp ngắn ngủi trong đêm trường dằng dặc.
Phải đến Ngô Quyền, rõ hơn phải “ Từ Đinh, Lê, Lý, Trần dựng nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương” (Nguyễn Trãi), chúng ta mới có nước Việt Nam phong kiến tự chủ. Có nước mới có vận nước. Vận nước có lúc thịnh lúc suy. Gần nghìn năm bảo vệ quyền độc lập, nhiều võ công lẫy lừng, có những giai đoạn cả trăm năm hưng thịnh nhưng những trường đoạn suy vi của nước ta cũng nhiều. Từ cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XX là một trường đoạn như vậy. Gần bốn trăm năm, có phong trào Tây Sơn, có thời kỳ mở nước đầu Nguyễn nhưng nhìn chung vận nước theo biểu đồ đi xuống, cốt nhục tương tàn, non sông chia cắt, lần lượt rơi vào tay ngoại bang. Phải chờ đến giữa thế kỷ XX, quá trình đi xuống ấy mới dừng lại với việc ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh dấu bằng việc Chủ tich Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Ý nghĩa của ngày 2-9 không chỉ dừng lại ở chỗ đó là thời điểm kết thúc một giai đoạn dài suy vi trong lịch sử dân tộc mà còn là điểm mở đầu của kỷ nguyên chấn hưng đất nước sau nhiều thế kỷ suy thoái.
Muốn chấn hưng, trước hết phải có độc lập. Muốn có độc lập, phải đánh đuổi được giặc ngoại xâm. Vào thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động toàn dân đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, thế giặc rất mạnh. Nước Pháp thuộc phe thắng trận trong Đại chiến thế giới thứ 2. Tại hai hội nghị phân chia chiến quả của phe Đồng minh là San Franxitco và Posđam, các nước thắng trận đều nhất trí trả lại cho Pháp những quyền lợi ở Đông Dương. Đạt được một số thỏa thuận, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch cũng đồng ý rút về nước, trả lại miền Bắc Việt Nam cho Pháp quản lý. Thế là trên bán đảo Đông Dương, cùng một lúc có quân Anh, Pháp, Nhật,Tưởng tuy mâu thuẫn với nhau nhưng cùng gặp nhau ở một điểm đó là không muốn có một nước Việt Nam độc lập, càng không muốn có một nước Việt Nam cộng sản. Thế giặc mạnh, quân giặc đông nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi chúng chưa kịp rải quân, chưa khôi phục kịp hệ thống chính quyền tay sai, Đông Dương tạm thời bị bỏ ngỏ, đó là thời cơ vàng . Chớp thời cơ này, Đảng đã lãnh đạo toàn dân vùng lên thiết lập chính quyền cách mạng và chính vì nắm được thời cơ cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và kết quả của nó là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một cuộc cách mạng dùng áp lực chính trị của quần chúng thay cho súng đạn, một cuộc cách mạng gần như không đổ máu. Giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám 1945 là cuộc phục hưng lớn thứ nhất của dân tộc ta trong thế kỷ XX.
Nhưng ngay sau khi giành được chính quyền, chúng ta lập tức phải chấp nhận những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, ác liệt kế tiếp nhau để giữ độc lập. Ba mươi năm chiến tranh, hàng triệu người chết và thương tật, nền kinh tế bị tàn phá kiệt quệ, trên một nửa dân số đói nghèo, trình độ phát triển bị bỏ xa không chỉ với các nước phát triển mà ngay với nhiều nước trong khu vực. Ngày giành thắng lợi hoàn toàn, đất nước thống nhất, vui vô bờ bến nhưng lo lắng cũng không nhỏ. Đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành độc lập là thành tựu lớn nhưng nếu đời sống người dân cứ mãi khổ cực, trình độ kinh tế cứ mãi lạc hậu thì nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, “độc lập cũng không để làm gì”. Sau nhiều năm tìm đường, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo quá trình đổi mới, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu để trở thành một nước giàu trong vài thập kỷ tới. Quá trình đổi mới đang diễn ra hiện nay là cuộc phục hưng thứ 2 của dân tộc ta trong thế kỷ XX.
Hai cuộc phục hưng lớn đều có tiền đề và đều được bảo đảm thắng lợi từ tính chất của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết vì đó là cuộc cách mạng vì dân tộc, vì dân. Ngày nay, trong vai trò lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước, tính chất vì dân tộc, vì dân của Nhà nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập ngày càng sáng tỏ. Trung thành với bản chất đó thì nhà nước ngày càng vững bền, sự nghiệp phục hưng đất nước ngày càng thắng lợi, thời kỳ hưng thịnh của non sông Việt càng dài lâu. Đó là bài học lớn nhắc nhở ta, nhất là vào những ngày này./.
duyenhai01
30-07-2012, 10:22 AM
công nhận xung thiệt hình như hít 2/9 roài mà vẫn còn bài post wá dữ cố lên bạn phuongkhanh oi :D
vBulletin v3.6.1, Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.