PDA

View Full Version : Tư liệu thuyết trình lịch sử 11


jmcvietnam
30-07-2012, 10:12 AM
lần trước chat với 1 bé lớp 11 , nhờ mình tìm giúp mấy tư liệu lịch sử . sau chả nhớ đã chat với ai nữa .hic ai là người đó thì vô đây hét lên 1tiếng để mình send wa mail nha . sorry giờ mới nhớ ra , hình như cũng hứa cách đây 3 , 4tháng gì đó rùi . hic ko muốn mang tiếng là kẻ thất hứa :( chỉ lỡ quên thôi

tanphuco
30-07-2012, 10:12 AM
mà thôi tớ post hết lên đây đi . bồ cứ vô đây mà copy về . xong rồi kêu 1 tiếng để admin , mod miếc gì xóa đi (để đây mất công gây hậu quả ...)

thậttình là đến bây giờ dù cố lắm nhưng ko nhớ bồ là ai hết , thông cảm nha ^^

kim
30-07-2012, 10:12 AM
TẠI SAO ANH, MỸ LÀM NGƠ TRƯỚC VIỆC PHÁT XÍT ĐỨC DIỆT CHỦNG NGƯỜI DO THÁI?




Tháng Giêng năm 2005, trong các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày quân đội Liên Xô giải phóng trại tập trung Auschwitz, báo chí nhiều nước đã nhắc lại một sự thật khó hiểu trong Đại chiến thế giới II là chính phủ các nước Đồng minh phương Tây đã làm ngơ trước việc phát xít Đức giết hại hàng triệu người Do Thái trong các trại tập trung ở Đông và Nam Âu.
Thái độ khó hiểu đó là một trong những cái gọi là “bí ẩn của Đại chiến II” hiện đã được đưa ra ánh sáng.

Trước đây, chính quyền các nước phương Tây và một số nhà sử học cho rằng, phương Tây không biết gì về kế hoạch của phát xít Đức và do đó không ngăn chặn được. Ngược lại, một số nhà sử học cho rằng, các nước phương Tây đã biết ý định của phát xít Đức nhưng vì những lý do nào đó, họ đã làm như không biết gì cả. Cuốn sách “Tập bản đồ xung đột Arập – Israel” của Martin Gilbert in năm 1974 cho biết: “Sau khi Hitler lên cầm quyền ở Đức (năm 1933), hàng trăm nghìn người Do Thái đã di cư về xứ Palestine hồi ấy do Anh ủy trị, nơi đã có nhiều người Arập và Do Thái cùng chung sống từ mấy nghìn năm nay. Họ mua đất của người Arập với giá cao để định cư. Dòng người Do Thái đổ về Palestine ngày một tăng làm người Arập tức giận, tấn công khủng bố người Do Thái. Chính quyền Anh đã hạn chế lượng người Do Thái di cư về đây. Năm 1939, Chính phủ Đức cho phép 250.000 người Do Thái sống ở Đức được di cư ra nước ngoài nhưng chính quyền Mỹ đã hạn chế số người Do Thái nhập cư vào Mỹ. Năm 1940, Quốc hội Mỹ bác bỏ dự luật mở cửa bang Alaska cho người Do Thái lánh nạn. Năm 1941, Mỹ thắt chặt hạn ngạch nhập cư người Do Thái; năm 1943, Mỹ lại từ chối lời đề nghị của Thuỵ Điển tiếp nhận 20.000 trẻ em Do Thái ở Đức di cư sang Mỹ. Người Do Thái sống ở Ba Lan có 3 triệu người thì bị phát xít Đức giết hại 2,6 triệu; Liên Xô (vùng Đức chiếm) có 2,5 triệu thì bị giết 750.000 người; Rumani có 1 triệu thì bị giết 750.000; Hunggari có 710.000 người thì bị giết 402.000 người…

Ngày 26/6/2000, Viện Hồ sơ quốc gia Mỹ công khai 400.000 trang hồ sơ tuyệt mật của Cơ quan Tình báo Mỹ. Dư luận vô cùng kinh ngạc khi biết các nước Anh, Mỹ không những nắm được các thông tin về kế hoạch diệt chủng người Do Thái của phát xít Đức mà còn biết rất rõ mọi chi tiết của kế hoạch này.

Mùa hè năm 1943, quân đội Anh liên tục bắt và giải mã được một số bức điện của Sở chỉ huy quân đội Đức tại Roma, Italia gửi về Bộ chỉ huy tối cao ở Berlin. Nội dung các bức điện tuyệt mật này cho thấy, trong thời kỳ đầu chiến tranh, do trùm phát xít Italia là Mussolini không tuân theo chủ trương của Hitler về vấn đề người Do Thái nên người Do Thái ở Italia không bị xua đuổi, giết hại. Tháng 7/1943, Mussolini bị lật đổ, quân Đức chiếm miền Bắc Italia, Hitler ra lệnh cho lực lượng SS của Đức phải bắt giam toàn bộ người Do Thái ở Italia đưa về các trại tập trung ở Đông và Nam Âu rồi “tiêu diệt về thể xác”. Các bức điện này có nội dụng như sau: “Từ ngày 6/10 tiến hành đăng ký danh sách tất cả 8.000 người Do Thái ở Roma, trong 10 ngày phải xong”. Ngày 11/10, Berlin trắng trợn ra lệnh phải lập tức tiêu diệt sạch người Do Thái sống trên đất Italia vì nếu làm chậm thì sẽ có nhiều người Do Thái ẩn náu vào các gia đình người Italia. Ngày 16/10, một bức điện từ Roma báo cáo: đã hoàn thành việc bắt giữ người Do Thái ở Italia, đưa về trại tập trung Auschwitz ở Ba Lan.

Sau này, người ta mới biết là sau khi chiến tranh chấm dứt, toàn bộ thành phố Roma chỉ còn lại vài trăm người Do Thái thoát chết, trong số 120.000 người Do Thái ở Italia có 90.000 người đã bị phát xít Đức giết hại. Rõ ràng, Hitler đã tiến hành một cuộc diệt chủng người Do Thái có kế hoạch mà không vấp phải sự phản đối công khai từ chính phủ Đồng minh nào.

Các bức điện được tình báo Anh giải mã đều lập tức chuyển đến lãnh đạo cao cấp của hai nước Anh và Mỹ. Thế nhưng, cho tới nay, các nhà sử học vẫn chưa khẳng định Thủ tướng Anh Churchill và tổng thống Mỹ Roosevelt đã đích thân đọc bức điện đó hay chưa; song chắc chắn là các nhà lãnh đạo cao cấp khác của hai nước này không thể không biết các bức điện đó. Đồng thời, nước Anh còn có thông tin quan trọng nữa lấy từ các điệp viên Anh cài trong các cơ quan của Đức. Một điệp viên Anh là cán bộ ngoại giao Đức đã lợi dụng các chuyến đi công tác tại Thuỵ Sĩ (nước trung lập) để gặp kín Dulles, trùm tình báo Mỹ thông báo các tin quan trọng.

Các hồ sơ tuyệt mật gần đây được chính quyền Mỹ công khai trước dư luận cho thấy Dulles đã được điệp viên kể trên thông báo về kế hoạch của phát xít Đức dự định trong năm 1943 sẽ tiêu diệt hết người Do Thái ở Italia. Trên thực tế, ngay từ đầu năm 1943, chính phủ Anh, Mỹ đã biết sự thật trong trại tập trung Auschwitz nhưng không hiểu sao họ vẫn im lặng.

Sau khi Đại chiến II chấm dứt, các nhà sử học do hâm mộ và kính trọng sâu sắc Churchill và Roosevelt nên không tin (hoặc không muốn tin) rằng hai lãnh tụ này đã biết kế hoạch diệt chủng của Hitler. Chẳng hạn trong cuốn “Auschwitz và các nước đồng minh” xuất bản năm 1981, nhà sử học người Anh Martin Gilbert viết: “Đến mùa hề năm 1944, Churchill và Roosevelt mới biết nhiều về việc phát xít Đức tàn sát hàng loạt người Do Thái”.

Các hồ sơ tuyệt mật mới công bố gần đây đã đập tan luận điệu trên. Nhiều nhà sử học và chính khách đều bày tỏ sự tức giận và kinh ngạc đối với Chính phủ Anh, Mỹ bao năm nay che giấu một sự thật lịch sử quan trọng đó. Và đó cũng là căn nguyên cho sự dung túng, bao che cho bọn tội phạm chiến tranh Quốc xã?

Dư luận thắc mắc về việc Toà án Nuremberg không xử tử tướng SS Đức Karx Wolf - kẻ đã dồn hàng chục nghìn người Do Thái ở Italia vào các trại tập trung để dùng hơi ngạt giết chết, thế mà năm 1949, hắn lại được trả tự do, sống an nhàn ở Muchen cho tới năm 1962 mới vào tù vì bị tố cáo có liên quan đến cái chết của 300.000 người Do Thái trong trại tập trung Treblinka ở Ba Lan; sau đó hắn bị một toà án ở Tây Đức xử 15 năm tù. Các hồ sơ mới công bố gần đây cho thấy, sở dĩ Wolf không bị trừng trị thích đáng là do hắn có “quan hệ đặc biệt” với Dulles, trùm tình báo Mỹ và do hắn là kẻ đã “có công” thu xếp cho quân Đức đóng ở Italia đầu hàng Đồng minh.

Trước sự thật nói trên, các nhà sử học cho rằng, nên viết lại lịch sử đoạn nói về “các nhà lãnh đạo Đồng minh không biết gì về vụ diệt chủng lớn trong Đại chiến II”. Một số nhà sử học cấp tiến cho rằng, Churchill và Roosevelt phải chịu trách nhiệm về đạo đức đối với người Do Thái bị phát xít Đức tàn sát. Một chuyên gia của Viện Hồ sơ quốc gia Mỹ nói: “Nếu ngày ấy, chỉ cần Churchill hoặc Roosevelt ra một tuyên bố công khai thì có thể cứu sống hàng chục nghìn người Do Thái ở Italia hoặc ít nhất cũng nhắc nhở người Do Thái ở đây hãy cảnh giác, trốn khỏi tay bọn phát xít Đức. Thế nhưng, hai vị lãnh đạo nổi tiếng này đã chọn cách im lặng. Họ làm thế để không gây phương hại đến hoạt động giải mã của tình báo Anh, Mỹ (tránh để Đức biết Đồng minh đã nắm được mật mã của Đức).

Hồ sơ mật mới công khai còn cho biết, Thủ tướng Anh Churchill thoạt đầu có ý định tốt. Ông từng trao đổi với Ngoại trưởng Anh Anthony Eden xem có nên ra một tuyên bố lên án hành động diệt chủng của phát xít Đức hay không, nhưng Eden kịch liệt phản đối với lý do có ra tuyên bố thì cũng chẳng ngăn chặn được Hitler và cũng không có lợi cho việc chiến thắng phát xít Đức. Churchill nghe theo Eden. Đây là một sai lầm của Thủ tướng Anh.

Việc Chính phủ Anh và Mỹ chậm công bố các hồ sơ mật của Thế chiến II đã bị các nhà sử học phê phán. Mọi người đều biết, với lý do “an ninh quốc gia”, hai nước này đã trì hoãn mãi việc công bố các tài liệu tình báo bí mật nói trên. Dư luận ngờ rằng, họ làm thế là để bảo vệ hình ảnh các nhà lãnh đạo hai nước này và để trốn tránh trách nhiệm đối với tội ác diệt chủng của phát xít Đức.

duyenhai01
30-07-2012, 10:12 AM
Các phương diện quân của Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại 1941 - 1945






Phương diện quân Belorussia:
Lần thành lập thứ nhất: 20.10.1943. Từ 24.2.1944 là Phương diện quân Belorussia – 1.
Tư lệnh: Đại tướng K. K. Rocossovski.
Phiên chế lần thứ hai: 5.4.1944. Từ 16.4.1944 là Phương diện quân Belorussia – 1 (phiên chế lần 2).
Tư lệnh: Đại tướng K. K. Rocossovski.

Phương diện quân Belorussia – 1:
Lần thành lập thứ nhất: 24.2.1944. Từ 5.4.1944 phiên chế thành Phương diện quân Belorussia – 2.
Tư lệnh: Đại tướng K. K. Rocossovski.

Phương diện quân Belorussia – 1
Phiên chế lần thứ 2 từ 16.4.1944 – 9.5.1945.
Tư lệnh: Đại tướng (từ 29.6.1944 là Nguyên soái Liên Xô) K. K. Rocossovski (đến 16.11.1944), Nguyên soái Liên Xô G. K. Jucov (đến 9.5.1945)

Phương diện quân Belorussia – 2
Lần thành lập thứ nhất: 24.2 – 5.4.1944.
Tư lệnh: Thượng tướng P. A. Kurochkin

Phương diện quân Belorussia – 2
Phiên chế lần thứ hai 24.4.1944 – 9.5.1945
Tư lệnh: Thượng tướng I. E. Petrov (đến 6.6.1944), Thượng tướng (từ 28.7.1944) là đại tướng G. F. Zakharov (đến 17.11.1944), Nguyên soái Liên Xô K. K. Rocossovski (đến 9.5.1945)

Phương diện quân Belorussia – 3 (24.4.1944 – 9.5.1945)
Tư lệnh: Thượng tướng (từ 26.6.1944 là đại tướng) I. D. Cherniakhovski (đến 18.2.1945); Nguyên soái Liên Xô A. M. Vasilevski (20.2 – 26.4.1945); Đại tướng I. Kh. Bagramian (đến 9.5.1945)

Phương diện quân Briansk
Lần thành lập thứ nhất: 18.8 – 10.11.1941
Tư lệnh: Trung tướng A. I. Eremenko (đến 13.10.1941); Thiếu tướng G. F. Zakharov.

Phương diện quân Briansk
Phiên chế lần thứ hai: 24.12.1941.
Từ 12.3.1943 đổi thành Phương diện quân Dự bị (phiên chế lần thứ hai).
Tư lệnh: Thượng tướng Ia. Cherevichenko (đến 2.4.1942); Trung tướng F. I. Gholikov (đến 7.7.1942); Trung tướng N. E. Chibisov (đến 13.7.1942); Trung tướng K. K. Rokossoski (đến 29.9.1942); Trung tướng (từ 30.1.1943 là thượng tướng) M. A. Reiter (đến 12.3.1943)

Phương diện quân Briansk
Phiên chế lần thứba: 28.3.1943
Từ 10.10.1943 đổi thành Phương diện quân Pribantic.
Tư lệnh: Thượng tướng M. A. Reiter (đến 5.6.1943); Thượng tướng M. M. Popov (đến 10.10.1943)

Phương diện quân Volkhovski
Lần thành lập thứ nhất: 17.12.1941 – 23.4.1942.
Tư lệnh: Đại tướng K. A. Mereskov

Phương diện quân Volkhovski
Phiên chế lần thứ hai: 8.6.1942 – 15.2.1944)
Tư lệnh: Đại tướng K. A. Mereskov

Phương diện quân Voronedz
Thành lập 9.7.1942
(Từ 20.10.1943 đổi thành Phương diện quân Ucraina - 1
Tư lệnh: Trung tướng (từ 19.1.1943 là thượng tướng) F. I. Gholikov (đến 14.7.1942 và từ22.10.1942 – 28.3.1943); Trung tướng (từ 7.12.1942 là thượng tướng và từ 13.2.1943 là đại tướng) N. F. Vatutin (14.7 – 22.10.1942 và 28.3 – 20.10.1943)

Phương diện quân Viễn Đông
Thành lập từ đầu chiến tranh
(Từ 5.8.1945 đổi thành Phương diện quân Viễn Đông 2)
Tư lệnh: Đại tướng I. R. Apanasenko (đến 25.4.1943); Thượng tướng (từ 26.10.1944 là đại tướng) M. A. Purkaev (đến 5.8.1945).

Phương diện quân Viễn Đông - 1 (5.8 – 3.9.1945)
Tư lệnh: Nguyên soái Liên Xô K. A. Mereskov

Phương diện quân Viễn Đông – 2 (5.8. — 3.9.1945)
Tư lệnh: Đại tướng M. A. Purkaev

Phương diện quân Sông Đông
30.9.1942, từ 15.2.1943 thành Phương diện quân Trung tâm (Phiên chế lần thứ hai)
Tư lệnh: Trung tướng (từ 15.1.1943 là thượng tướng K. K. Rokossovski)

Phương diện quân Zabaikal - 15.9.1941 – 3.9.1945
Tư lệnh: Trung tướng (từ 7.5.1943 là thượng tướng) M. P. Kovalev (đến 12.7.1945); Nguyên soái Liên Xô R. Ia. Malinovski (đến 3.9.1945)

Phương diện quân Zakavkaz (Ngoại Kavkaz)
Thành lập lần thứ nhất: 23.8.1941
Từ 30.12.1941 đổi thành Phương diện quân Kavkaz
Tư lệnh: Trung tướng D. T. Kozlov

Phương diện quân Zakavkaz
Phiên chế lần thứ hai: 15.5.1942 – 9.5.1945
Tư lệnh: Đại tướng I. V. Tiulenev

Phương diện quân Tây: 22.6.1941.
Từ 24.4.1944 là Phương diện quân Beloruss – 3
Tư lệnh: Đại tướng D. G. Pavlov (đến 30.6.1941); Trung tướng A. I. Eremenko (đến 2.7.1941, và từ 19.7 – 29.7.1941); Nguyên soái Liên Xô S. K. Timosenko (2.7 – 19.7.1941); Thượng tướng I. S. Konev (đến 12.10.1941 và từ 26.8.1942 – 27.2.1943); Đại tướng G. K. Jukov (13.10.1941 – 28.8.1942); Thượng tướng (từ 27.8.1943 là đại tướng) V. D. Sokolovski (28.2.1943 – 15.4.1944); Thượng tướng I. D. Chernhiakhovski (dến 24.4.1944)

Phương diện quân Kavkaz : 30.12.1941.
Từ 28.1.1942 là Phương diện quân Krưm
Tư lệnh: Trung tướng D. T. Kozlov

Phương diện quân Kalinin: 19.10.1941.
Từ 20.10.1943 là Phương diện quân Pribaltic – 1
Tư lệnh: Thượng tướng I. C. Konev (đến 26.8.1942); Trung tướng (từ 18.11.1942 là thượng tướng) M. A. Purkaev (đén 25.4.1943); Thượng tướng (từ 27.8.1943 là đại rướng) A. I. Eremenko (đến 20.10.1943)

Phương diện quân Karelski 1.9.1941 – 15.11.1944
Tư lệnh: Trung tướng (từ 28.4.1943 là thượng tướng) V. A. Frolov (đến 21.2.1944); Đại tướng (từ 26.10.1944 là nguyên soái Liên Xô) K. A. Mersekov (đến 15.11.1944)


Phương diện quân Crưm 28.1 – 19.5.1942
Tư lệnh: Trung tướng D. T. Kozlov

Phương diện quân Kursk (Cuốc-xcơ)
Thành lập 23.3.1943. Từ 27.3.1943 là Phương diện quân Orlov
Tư lệnh: Thượng tướng M. A. Peiter.

Phương diện quân Leningrad 26.8.1941 – 9.5.1945
Tư lệnh: Trung tướng M. M. Popov (đến 5.9.1941); Nguyên soái Liên Xô K. E. Vorosilov (đến 12.9.1941); đại tướng G. K. Jukov (đến 7.10.1941); Thiếu tướng I. I. Fediuninski (đến 26.10.1941); Trung tướng M. C. Khozin (đến 9.6.1942); Trung tướng (từ 15.1.1943 là thượng tướng, từ 17.11.1943 là đại tướng, từ 18.6.1944 là nguyên soái Liên Xô) L. A. Govorov (đến 9.5.1945)

Khu vực phòng thủ Moskva 2.12.1941 – 15.10.1943
Tư lệnh: Trung tướng (từ 22.1.1942 là thượng tướng) P. A. Artemiov

Phương diện quân dự bị Moskva 9.10 – 12.10.1941
Tư lệnh: Trung tướng P. A. Artemiov

Phương diện quân Orlov
Thành lập 27.3.1943. Từ 28.3.1943 đổi thành Phương diện quân Brianski (phiên chế lần thứ 3)
Tư lệnh: Thượng tướng M. A. Reiter

Phương diện quân Pribaltic
Thành lập 10.10.1943. Từ 20.10.1943 đổi thành Phương diện quân Pribaltic – 2)
Tư lệnh: Đại tướng M. M. Popov

Phương diện quân Pribaltic – 1 - 20.10.1943 – 24.2.1945
Tư lệnh: Đại tướng A. I Eremenko (đến 19.11.1943); Đại tướng I. Kh. Bagriaman (đến 24.2.1945)

Phương diện quân Pribaltic – 2 - 20.10.1943 – 1.4.1945
Tư lệnh: Đại tướng (từ 20.4.1944 là thượng tướng (?)) M. M. Popov (đến 23.4.1944 và từ 4.2 – 9.2.1945); Đại tướng A. I. Eremenko (23.4.1944 – 4.2.1945); Nguyên soái Liên Xô L. A. Govorov (9.2 đến 31.3.1945)


Phương diện quân Pribaltic – 3 - 21.4 – 16.10.1944
Tư lệnh: Thượng tướng (từ 28.7.1944 là đại tướng) I. I. Maslenikov.

Cụm quân đội Primorsk
Thành lập 20.4.1945. Từ 5.8.1945 đổi thành Phương diện quân Viễn Đông – 1
Tư lệnh: Nguyên soái Liên Xô K. A. Mersekov

Phương diện quân dự bị
Lần thành lập thứ nhất: 29.7 – 12.10.1941
Tư lệnh: Đại tướng G. K. Jukov (30.7 – 12.9.1941 và 8.10.1941); Nguyên soái Liên Xô S. M. Budennưi (13.9 – 8.10.1941)

Phương diện quân dự bị
Phiên chế lần thứ hai 12.3.1943. Từ 23.3.1943 đổi thành Phương diện quân Kursk
Tư lệnh: M. A. Reiter

Phương diện quân Dự bị
Phiên chế lần thứ ba 10.4 – 15.4.1943
Tư lệnh: Trung tướng M. M. Popov

Phương diện quân Bắc
Thành lập 24.6.1941. Từ 26.8.1941 đổi thành Phương diện quân Leningrag
Tư lệnh: Trung tướng M. M Popov


Phương diện quân Tây Bắc - 22.6.1941 – 20.11.1943
Tư lệnh: Thượng tướng F. I. Kuznesov (đến 3.7.1941); Thiếu tướng P. P Sobennikov (đến 23.8.1941); Trung tướng (từ 28.8.1943 là thượng tướng) P. A. Kurochkin (đến 5.10.1942 và từ 23.6 – 20.11.1943); Nguyên soái Liên Xô S. K. Timosenko (5.10.1942 – 14.3.1943); Thượng tướng I. S. Konev (đến 22.6.1943)


Phương diện quân Bắc Kavkaz
Lần thành lập thứ nhất 20.5 – 3.9.1943.
Tư lệnh: Nguyên soái Liên Xô S. M. Budennưi

Phương diện quân Bắc Kavkaz
Phiên chế lần thứ hai 24.1 – 20.11.1943.
Tư lệnh: Trung tướng (từ 30.1.1943 là thượng tướng) I. I. Maslenniikov (đến 13.5.1943); Trung tướng (từ 27.8.1943 là thượng tướng) I. E. Petrov (đến 20.11.1943)

Phương diện quân Stalingrad
Lần thành lập thứ nhất 12.7.1942. Từ 30.9.1942 đổi thành Phương diện quân Sông Đông.
Tư lệnh: Nguyên soái Liên Xô S. K. Timosenko (đến 23.7.1942); Trung tướng V. N. Gordov (d6én 12.8.1942); Thượng tướng A. I. Eremenko (đến 30.9.1942)

Phương diện quân Stalingrad
Phiên chế lần thứ hai 30.9.1942. Từ 31.12.1942 đổi thành Phương diện quân Nam (phiên chế lần hai)
Tư lệnh: Thượng tướng A. I. Eremenko.

Phương diện quân Thảo nguyên (Stepnoi)
Lần thành lập thứ nhất 9.7.1943. Từ 20.10.1943 đổi thành Phương diện quân Ucraina – 2
Tư lệnh: Thượng tướng (từ 26.8.1943 là đại tướng) I. S. Konev


Phương diện quân Ucraina – 1
20.10.1943 – 11.5.1945.
Tư lệnh: Đại tướng N. F. Vatutin (đến 2.3.1944); Nguyên soái Liên Xô G. K. Jukov (đến 24.5.1944); Nguyên soái Liên Xô I. S. Konev (đến 11.5.1945).


Phương diện quân Ucraina – 2
20.20.2943 – 11.5.1945
Tư lệnh: Đại tướng (từ 20.2.1944 là Nguyên soái Liên Xô) I. S. Konev (đến 21.5.1944); Đại tướng (từ 10.9.1944 là Nguyên soái Liên Xô R. Ia. Malinovski (đến 11.5.1945)

Phương diện quân Ucraina – 3
20.20.1943 – 9.5.1945
Tư lệnh: Đại tướng R. Ia. Malinovski (đến 15.5.1944); Đại tướng (từ 12.9.1944 là Nguyên soái Liên Xô) F. I. Tolbukhin (đến 9.5.1945)

Phương diện quân Ucraina – 4
Lần thành lập thứ nhất 20.10.1943 – 31.5.1944
Tư lệnh: Đại tướng F. I. Tolbukhin (đến 15.5.1944)

Phương diện quân Ucraina – 4
Phiên chế lần thứ hai 5.8.1944 – 11.5.1945
Tư lệnh: Thượng tướng (từ 26.10.1944 là đại tướng) I. E. Petrov (đến 16.3.1945); Đại tướng A. I. Eremenko (đến 11.5.1945)

Phương diện quân Phòng tuyến Mojaiski 18.7 – 30.7.1941
Tư lệnh: Trung tướng P. A. Artemiov

Phương diện quân các tập đoàn quân dự bị
Thành lập 14.7.1941. Từ 29.7.1941 đổi thành Phương diện quân Dư bị (phiên chế lần thứ nhất)
Tư lệnh: Trung tướng I. A. Bogdanov

Phương diện quân Trung tâm
Lần thành lập thứ nhất 26.7 – 25.8.1941
Tư lệnh: Thượng tướng F. I. Kuznesov (đến 7.8.1941); Trung tướng M. G. Efremov (đến 25.8.1941)

Phương diện quân Trung tâm
Phiên chế lần thứ hai 15.2.1943. Từ 20.10.1943 đổi thành Phương diện quân Beloruss (phiên chế lần thứ nhất)
Tư lệnh: Thượng tướng (từ 28.4.1943 là đại tướng) K. K. Rokossovski

Phương diện quân Đông Nam:
Thành lập 7.8.1942. Từ 30.9.1942 đổi thành Phương diện quân Stalingrad (phiên chế lần hai)
Tư lệnh: Thượng tướng A.. I. Eremenko

Phương diện quân Tây Nam
Lần thành lập thứ nhất 22.6.1941. Từ 12.7.1942 đổi thành Phương diện quân Stalingrad (phiên chế lần thứ nhất)
Tư lệnh: Thượng tướng M. P. Kirponos (đến 20.9.1941); Nguyên soái Liên Xô S. K. Timosenko (30.9 – 18.12.1941 và 8.4 – 12.7.1942); Trung tướng F. Ia. Kostenco (18.12.1941 – 8.4.1942)


Phương diện quân Tây nam
Phiên chế lần thứ hai 25.10.1942. Từ 20.10.1943 đổi thành Phương diện quân Ucraina – 3.
Tư lệnh: Trung tướng (từ 7.12.1942 là thượng tướng, từ 13.2.1943 là đại tướng) N. F. Vatutin (đến 27.3.1943); Thượng tướng (từ 28.4.1943 là đại tướng R. Ia. Malinovski (đến 20.10.1943)

Phương diện quân Nam
Lần thành lập thứ nhất 25.6.1941 – 28.7.1942
Tư lệnh: Đại tướng I. V. Tiulenev (đến 30.8.1941); trung tướng D. I. Riabưsev (đến 5.10.1941); Thượng tướng Ia. T. Cherevichenko (đến 24.12.1941); Trung tướng R. Ia. Malinovski (đến 28.7.1942)

Phương diện quân Nam
Phiên chế lần thứ hai 1.1.1943. Từ 20.10.1943 đổi thành Phương diện quân Ucraina – 4 (phiên chế lần thứ nhất)
Tư lệnh: Trung tướng (từ 12.2.1943 là thượng tướng) R. Ia. Malinovski (đến 22.3.1943); Trung tướng (từ 28.4.1943 là thượng tướng, từ 21.9.1943 là đại tướng) F. I. Tolbukhin (đến 20.10.1943)

lengo_ltd
30-07-2012, 10:12 AM
CHIẾN DỊCH BÉC-LIN

Phía Liên Xô:
Trong những tháng Giêng, Hai và Ba năm 1944 bộ đội của Phương diện quân U-crai-na 4 tiến công ở Các-pát, phối hợp với bộ đội của Phương diện quân U-crai-na 1.
Phương diện quân U-crai-na 2 và 3 trong những tháng Giêng, Hai và nửa đầu tháng 3 năm 1945 làm nhiệm vụ đánh phòng ngự chống lại các đơn vị phát-xít Đức tiến công nhằm đánh bật bộ đội ta trở về bên kia sông Đa-nuýp, giải vây cho số quân của chúng đang bị vây hãm ở Bu-đa-pét và do đó mà củng cố được khu vực phòng ngự của chúng trên đất Hung-ga-ri.
Sau những trận đánh gay go ác liệt, bộ đội các Phương diện quân U-crai-na 3 và 2 đã gây cho lực lượng xung kích quân Đức những thiệt hại nặng, đánh lui mọi âm mưu của chúng hòng tiến đến Đa-nuýp, và đến giữa tháng 3 đã tạo được điều kiện chuyển sang tiến công trên hướng Viên.
Trong thời gian từ 16tháng Ba đến hết ngày 15-4, bộ đội của các Phương diện quân U-crai-na 2 và 3 mở chiến dịch tiến công vào Viên, tiêu diệt được hơn 30 sư đoàn quân Đức thuộc cụm tập đoàn quân “Nam”.
Đến giữa tháng 4, quân ta đã hoàn toàn quét sạch quân phát-xít Đức ra khỏi Hung-ga-ri và phần lớn lãnh thổ Tiệp Khắc tiến vào nước áo, giải phóng Viên và mở đường tiến vào những khu vực trung tâm Tiệp Khắc. Nước Đức bị mất hẳn những nguồn dầu hỏa ở Hung-ga-ri, Áo và nhiều xí nghiệp sản xuất trang bị, binh khí kỹ thuật.
Kết quả những chiến dịch của các Phương diện quân U-crai-na 2 và 3 từ tháng Giêng đến tháng Tư năm 1945 là sườn phía nam tuyến trận địa chiến lược của bộ dội Xô-viết đã tiến lên ngang với các phương diện quân đang hoạt động trên hướng Béc-lin. Tiến tới bờ phía đông sông Ô-đe và Nây-xe trên một đoạn kéo dài từ biển Ban-tích đến Goóc-lít-xơ và che kín được hai bên sườn, thế là bộ đội Liên Xô đã chiếm được những tuyến xuất phát có lợi cho trận đánh cuối cùng nhằm tiêu diệt bọn quân Đức đóng ở Béc-lin và chiếm Béc-lin.
Bên cánh trái mặt trận Xô - Đức, bộ đội ta tiến vào vùng Viên, và ở phía nam, đã chiếm được những trận địa thuận lợi cho cuộc tiến công sâu vào nước áo và vào phía nam nước Đức...
Bên phía tây, lực lượng vũ trang các nước Đồng minh của trong tháng Hai và Ba, sau khi vượt sông Ranh, đã hợp vây được cụm lớn quân phát-xít Đức ở Rua. Ngày 17 tháng Tư, cụm đó đầu hàng.
Sau khi những lực lượng chủ yếu quân Đức trên mặt trận Xô - Đức bị tiêu diệt và các nước Đồng minh đã tiến quân vượt sông Ranh thì mối thảm họa không tài nào thoát khỏi đã treo lơ lửng trên nước Đức phát-xít. Nước Đức không còn lực lượng để tiếp tục cuộc đấu tranh vũ trang. Chiến tranh đến lúc kết thúc thì, trong quan hệ giữa ta với các nước Đồng minh đã nổi lên nhiều vấn đề chính trị gay gắt. Và điều đó hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên.
Tình trạng dề dà trước đây của bộ chỉ huy Mỹ - Anh đã biến thành sự hấp tấp đến cùng cực. Chính phủ Anh và Mỹ thúc giục bộ chỉ huy lực lượng viễn chinh ở châu Âu phải tiến quân thật nhanh vào những vùng trung tâm nước Đức để chiếm lấy nó trước khi bộ đội Liên Xô tiến tới.
Ngày 1 tháng Tư năm 1945, U.Sớc-sin viết cho Ph.Đ. Ru-dơ-ven: “Quân đội Nga, không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ chiếm toàn bộ nước Áo và tiến vào Viên. Nếu họ lại chiếm cả Béc-lin nữa thì liệu có tạo nên cho họ một sự đánh giá quá phóng đại cho rằng họ đã góp phần lớn nhất vào thắng lợi chung của chúng ta hay không, và việc đó có dẫn họ đến một trạng thái tâm lý có thể gây nên những khó khăn nghiêm trọng vô cùng to lớn mai sau hay không? Vì vậy tôi cho rằng, đứng về quan điểm chính trị, chúng ta cần tiến vào nước Đức, càng sâu sang phía đông càng tốt, và nếu Bée-lanh nằm trong phạm vi ta có thể với tới, cố nhiên, ta phải chiếm lấy”.
Bộ chỉ huy quân đội Anh và cả nhiều tướng lĩnh Mỹ đã tìm mọi cách chiếm được Béc-lin và những vùng đất đai phía bắc và phía nam nó.
Là chiến dịch kết thúc Thế chiến thứ hai ở châu Âu, chiến dịch Béc-lin giữ một vị trí đặc biệt. Chiếm được Béc-lin là giải quyết xong những vấn đề quân sự, chính trị quan trọng nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng nước Đức sau chiến tranh và vị trí chính trị của nước Đức ở châu Âu.
Lực lượng vũ trang Xô-viết chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng với quân phát-xít đã nghiêm chỉnh theo đúng đường lối đã được thỏa thuận với các nước Đồng minh là buộc nước Đức phải đầu hàng không điều kiện cả về mặt quân sự, kinh tế lẫn chính trị. Mục tiêu chính trong giai đoạn chiến tranh này là thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa phát-xít trong chế độ xã hội và nhà nước Đức, bắt bọn tội phạm quốc xã phải đền tội thích đáng nhất về những vụ giết người hàng loạt, về sự tàn phá và xúc phạm mà chúng đã gây ra đối với các dân tộc trong những nước bị chúng chiếm đóng, nhất là đối với nước chúng ta đã chịu biết bao đau khổ.
Ý đồ của chiến dịch Béc-lin về cơ bản đã được xác định trong Đại bản doanh vào tháng Mười một năm 1944. Trong quá trình các chiến dịch Vi-xla - Ô-đe, Đông Phổ và Pô-mê-ra-ni, ý đồ đó lại được xác định rõ thêm.
Ngày 29 tháng Ba theo lệnh của Đại bản doanh, Nguyên soái G.K. Giu-cốp về Mát-xcơ-va, mang theo kế hoạch chiến dịch Béc-lin của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1. Kế hoạch ấy do bộ tham mưu và bộ tư lệnh phương diện quân nghiên cứu trong suốt tháng Ba, mọi vấn đề có tính chất nguyên tắc đều thống nhất về cơ bản với Bộ Tổng tham mưu và Đại bản doanh.
Ngày 31tháng Ba, tư lệnh Phương diện quân U-crai-na 1, nguyên soái I.X. Cô-nép tới Bộ Tổng tham mưu để nghiên cứu kế hoạch chung của chiến dịch Béc-lin và sau đó báo cáo về dự thảo kế hoạch tiến công của bộ đội Phương diện quân U-crai-na 1.
Trận tiến công Béc-lin được quyết định mở màn vào ngày 16 tháng Tư, không đợi sự phối hợp hành động của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2. Theo những tính toán đã được xác định, Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 không thể bắt đầu tiến công từ sông Ô-đe trước ngày 20 tháng Tư.
Tối ngày 1 tháng Tư Tổng tư lệnh tối cao ký mệnh lệnh cho Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 chuẩn bị và tiến hành chiến dịch đánh chiếm Béc-lin, và chỉ thị trong vòng từ 12 đến 15 ngày phải tiến tới sông En-bơ.
Mũi đột kích chủ yếu được quyết định tổ chức từ bàn đạp Kiu-xtơ-rin bằng lực lượng của 4 tập đoàn quân bộ đội hợp thành và 2 tập đoàn quân xe tăng. Dự kiến, sau khi đột phá phòng ngự quân Đức, sẽ đưa các tập đoàn quân xe tăng vào đánh vu hồi phía bắc và đông bắc Béc-lin. Thê đội 2 của phương diện quân (tập đoàn quân 3 của thượng tướng A.V. Goóc-ba-tốp) cũng được ấn định sẽ bước vào chiến đấu trên hướng chủ yếu.
Vì có sự thay đổi tuyến phân giới và có chỉ thị cho phương diện quân phải sẵn sàng cho 2 tập đoàn quân xe tăng từ phía nam quay sang đánh vào Béc-lin, nên bản dự thảo mệnh lệnh cho Phương diện quân U-crai-na 1 được Tổng tư lệnh tối cao ký chậm một ngày, sau khi sửa chữa những điểm cần thiết.
Mệnh lệnh cho Phương diện quân U-crai-na 1:
- Tiêu diệt tập đoàn quân Đức đóng trong vùng Cốt-bút và phía nam Béc-lin;
- Cô lập những lực lượng chủ yếu của cụm tập đoàn quân “Trung tâm” với cụm quân Đức ở Béc-lin, nhân đó sẽ bảo đảm mặt phía nam cho mũi đột kích của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1;
- Trong vòng không quá 10 đến 12 ngày, phải tiến ra tuyến Bê-ê-lít - Vi-ten-béc và xa nữa, theo sông En-bơ đến Đrét-xđen;
- Mũi đột kích chủ yếu của phương diện quân đánh vào hướng Spren-béc;
- Sau khi đột phá, đưa tập đoàn quân xe tăng 3 và 4 tiến vào hướng đột kích chủ yếu.
Do chỗ phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 vẫn còn chiến đấu kịch liệt chống quân Đức trong các vùng đông nam Đăng-dích và bắc Gơ-đư-nha, Đại bản doanh bộ Tổng tư lệnh tối cao đã hạ quyết tâm bắt đầu tập trung chủ lực của phương diện quân đó tới Ô-đe để thay phiên cho các đơn vị của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a1 ở khu vực Côn-béc - Vét chậm nhất vào ngày 15 tháng Tư. K.K. Rô-cô-xốp-xki được lệnh giữ lại một phần lực lượng để thanh toán nốt quân quân Đức trong vùng Đan-xích và Gơ-dư-nha.
Trong thời gian thảo luận kế hoạch chung những hoạt động sắp tới trên hướng Béc-lin ở Đại bản doanh, các mục tiêu và nhiệm vụ tác chiến của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 về cơ bản đã được xác định.
Vì chiến dịch của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 bắt đầu 4 ngày sau, nên nguyên soái K.K. Rô-cô-xốp-xki không được triệu tập về Đại bản doanh để thảo luận về chiến dịch Béc-lin.
Do đó, Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 đã phải tiến công trong những ngày đầu tiên rất căng thẳng là vì sườn bên phải bị hở, không có sự hiệp đồng về chiến dịch và chiến thuật với bộ đội của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2.
Chúng tôi đã nghiên cứu nghiêm chỉnh việc Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 bắt buộc phải lui ngày bắt đầu tiến công lại, và cả những khó khăn mà phương diện quân đó nhất định sẽ gặp phải trong quá trình vượt sông Ô-đe ở phía hạ lưu. Ở phía ấy, sông có hai dòng - Ô-xtơ Ô-đe và Ve-xtơ Ô-đe -, rộng từ 150 đến 250 mét, sâu 10 mét. Theo chúng tôi tính toán, Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 có thể vượt khá nhanh hai lòng sông đó và thiết lập được bàn đạp cần thiết, nhưng ít nhất cũng phải mất 2 - 3 ngày. Do đó, phương diện quân chỉ có thể thực sự đụng độ với quân quân Đức ở phía bắc Béc-lin vào khoảng 23 – 24 tháng 4, tức là vào lúc Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 đánh vào Béc-lin rồi.
Bộ tổng Tư lệnh tối cáo biết rõ, tốt hơn là nên đợi 5 - 6 ngày nữa hãy bắt đầu chiến dịch Béc-lin cùng một lúc bằng cả 3 phương diện quân, nhưng như tôi đã nói ở trên, do tình huống quân sự, chính trị hình thành lúc đó Đại bản doanh không thể lui chiến dịch chậm hơn nữa.
Trong suốt cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại, nói chung không có thành phố nào được củng cố vững chắc như Béc-lin. Diện tích chung của thành phố khoảng 900 km vuông. Các công trình ngầm dưới đất rất phát triển giúp cho quân quân Đức có khả năng cơ động rộng rãi. Không quân trinh sát Hồng quân đã 6 lần chụp ảnh Béc-lin, chụp tất cả những đường tiếp cận và các dải phòng ngự. Những tin tức, tài liệu thu được qua các bức ảnh chụp, giấy tờ bắt được và lời khai của tù binh đã giúp ta xây dựng được những sơ đồ chi tiết, các bản kế hoạch, các bản đồ để in phát cho tất cả các đơn vị và thủ trưởng cơ quan tham mưu các cấp đến tận đại đội. Bộ đội đã dựng được mô hình chính xác thành phố cùng những vùng lân cận, giúp cho việc nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến việc tổ chức trận tổng công kích Béc-lin và các trận đánh trong nội thành.


Trong khi chuẩn bị chiến dịch đã nảy ra ý kiến dùng đèn chiếu đánh ban đêm.
Đòn đánh được quyết định thực hiện vào khoảng 2 tiếng đồng hồ trước khi trời sáng. Hơn 140 đèn chiếu phòng không có nhiệm vụ bất ngờ phát sáng, chiếu vào các trận địa quân quân Đức và các mục tiêu tiến công.Trong thời gian chuẩn bị chiến dịch, những người tham gia chiến dịch đã thấy rõ hiệu quả thực tế của đèn chiếu, nên tất cả đều nhất trí tán thành sử dụng.
Vấn đề sử dụng các tập đoàn quân xe tăng được đem ra thảo luận nghiêm túc trong quá trình diễn tập và thực hiện tập bài đột phá phòng ngự chiến thuật quân Đức tại Ô-đe. Trên các điểm cao Dê-ê-lốp, phòng ngự chiến thuật của quân Đức mạnh, nên đã quyết định chỉ sau khi chiếm được những điểm cao đó mới đưa các tập đoàn quân xe tăng vào chiến đấu.
Trong kế hoạch này, các tập đoàn quân xe tăng không được dự kiến cho tiến sâu vào dải phòng ngự chiến dịch ngay sau khi đột phá phòng ngự chiến thuật, như đã làm trong các chiến dịch Vi-xla - Ô-đe, Đông Phổ và các chiến dịch khác trước đây. Trong những chiến dịch đó, các tập đoàn quân xe tăng đã tiến khá xa về phía trước và hành động ấy đã tạo mọi điều kiện cho các tập đoàn quân bộ đội hợp thành tiến quân nhanh chóng.
Trong chiến dịch Vi-xla - Ô-đe có lúc tập đoàn quân xe tăng đã bứt cách xa các tập đoàn quân bộ đội hợp thành đến 70 km. Nhưng ở đây việc hành động như vậy khó vì khoảng cách tới Béc-lin theo đường thẳng không quá 60 - 80 km. Nên kế hoạch của Phương diện quân đề ra như sau: Nếu mũi đột kích của thê đội 1 tỏ ra không đủ sức nhanh chóng vượt qua phòng ngự chiến thuật của quân Đức và cuộc tiến công có nguy cơ phát triển chậm, thì lúc đó sẽ đưa 2 tập đoàn quân xe tăng vào để đập tan phòng ngự quân Đức. Như vậy sẽ tăng cường cho mũi đột kích của các tập đoàn quân bộ đội hợp thành và giúp đắc lực cho việc hoàn thành đột phá phòng ngự chiến thuật của quân Đức trong vùng sông Ô-đe và ở những điểm cao Dê-ê-lốp.
Mệnh lệnh của Đại bản doanh đã dự định đưa cả tập đoàn quân xe tăng 1 và 2 vào chiến đấu để đột kích vào đông bắc và vu hồi vào phía bắc Béc-lin, nhưng vì đơn vị ở bên phải Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 là Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 bắt đầu tiến công chậm hơn nên mọi sự chậm trễ nào trong khi đột phá đều làm cho phương diện quân lâm vào tình huống tác chiến rất không lợi. Để bảo đảm cho phương diện quân tránh khỏi mọi bất trắc, Bộ chỉ huy Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 quyết định đặt vị trí xuất phát của tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng M.E. Ca-tu-cốp sau tập đoàn quân cận vệ 8 của V.I. Chui-cốp để khi cần thiết có thể đưa ngay vào chiến đấu cùng với tập đoàn quân 8.


Diễn biến cuộc tiến công của các đơn vị Mỹ - Anh trên vùng sông Ranh:
Khi xây dựng kế hoạch chiến dịch Béc-lin, có tính đến cả những hoạt động của quân đội viễn chinh các nước Đồng minh.
Cuối tháng Ba, đầu tháng Tư năm 1945, quân đội viễn chinh các nước Đồng minh đã triển khai trên một chính diện rộng, tiến ra sông Ranh, và bắt đầu vượt sông để phát triển tiến công chung vào các vùng trung tâm nước Đức.
Bộ tổng chỉ huy quân Đồng minh đề ra nhiệm vụ trước mắt là tiêu diệt cụm quân quân Đức ở Rua và chiếm lấy vùng công nghiệp đó. Kế đó, họ sẽ cho quân đội Mỹ và Anh tiến đến sông En-bơ trên hướng Béc-lin. Cùng lúc đó, họ mở các chiến dịch của quân Mỹ và Pháp ở hướng nam nhằm đánh chiếm các vùng Stút-ga, Muy-ních và tiến vào những vùng trung tâm nước Áo và Tiệp Khắc.
Mặc dầu quyết định của hội nghị Yan-ta đã quy định vùng chiếm đóng của Quân đội Liên Xô xa mãi sang phía tây Béc-lin và lúc này bộ đội Liên Xô đã có mặt ở sông Ô-đe và Nây-xe (cách Béc-lin 60 - 100 km) và đã sẵn sàng mở chiến dịch Béc-lin, nhưng người Anh vẫn tiếp tục ôm ấp mộng chiếm Béc-lin sớm, trước khi Hồng quân tới.
Tuy giữa các giới quân sự, chính trị Mỹ và Anh chưa nhất trí với nhau về những mục tiêu chiến lược trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, nhưng bản thân bộ tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh các nước Đồng minh thì vẫn không từ bỏ ý định chiếm Béc-lin nếu tình hình thuận lợi.
Vì vậy ngày 7 tháng Tư năm 1945, khi thông báo cho Bộ tham mưu hợp nhất các nước Đồng minh về quyết định đối với các chiến dịch cuối cùng, tướng Đ. Ai-xen-hao tuyên bố:
- Sau khi chiếm được Lép-dích, nếu có khả năng tiến quân về Béc-lin mà không bị tổn thất lớn thì tôi cũng muốn làm việc ấy. Tôi là người đầu tiên tán thành tiến hành chiến tranh để đạt những mục tiêu chính trị, và nếu bộ tham mưu hợp nhất quyết định chiếm Béc-lin là cần hơn các hoạt động có tính chất thuần túy quân sự tại chiến trường này, thì tôi vui lòng thay đổi các kế hoạch và suy nghĩ của mình để mở bằng được chiến dịch đó.
Cuối tháng Ba, qua phái đoàn Mỹ, I.V. Xta-lin được Ai-xen-hao thông báo cho biết, ông ta đã có kế hoạch tiến quân tới ranh giới đã thỏa thuận trên hướng Béc-lin. Theo thông báo đó thì các đơn vị Anh và Mỹ sẽ mở cuộc tiến công tiếp sau trên hướng đông bắc để tiến vào vùng Liu-béc và đến hướng đông nam nhằm tiêu diệt bọn quân Đức ở phía nam nước Đức.
I.V. Xta-lin đã biết rằng, gần đây bọn Hít-le đang tích cực tìm cách ký kết những hiệp nghị riêng rẽ với các chính phủ Anh và Mỹ. Trước tình thế tuyệt vọng của quân đội Đức, rất có thể là bọn Hít-le sẽ không chống cự ở phía tây và sẽ mở đường cho quân đội Mỹ - Anh vào Béc-lin, không để Béc-lin rơi vào tay Hồng quân.
Ở đây bọn Hít-le để lại một lực lượng bảo vệ rất yếu. Trước đây sau khi rút qua sông Ranh, quân Đức có thể tổ chức chống cự quyết liệt được. Song, chúng đã không làm như vậy. Trước hết là vì những lực lượng chủ yếu của chúng đã sang phía đông để chống lại bộ đội Liên Xô. Ngay trong lúc cụm quân của chúng ở hạt Rua lâm vào tình thế hiểm nghèo, bộ chỉ huy Đức vẫn rút quân ở phía tây về tăng cường cho mặt trận phía đông chống lại bộ đội Liên Xô.
Lúc đầu khi quân Mỹ - Anh mở chiến cục, bọn Đức ở mặt trận phía tây có 60 sư đoàn đã kiệt sức, hiệu lực chiến đấu của chúng chỉ ngang với 26 sư đoàn đủ biên chế. Quân Đồng minh có ở đây 80 sư đoàn biên chế trang bị đầy đủ, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng. Quân Đồng minh lại chiếm ưu thế đặc biệt trên không. Những đòn tập kích bằng máy bay của quân Đồng minh thực tế có thể chế áp hoàn toàn mọi sự chống cự trên mặt đất cũng như trên không ở bất cứ vùng nào.
Vì vậy quân Mỹ - Anh vượt qua sông Ranh trong những điều kiện dễ dàng và họ chiếm được sông Ranh thật ra không gặp sức kháng cự nào của quân Đức.
Không đợi phải tiêu diệt xong cụm quân Đức đóng ở Rua, bộ tổng chỉ huy quân Đồng minh đã vội vã tung những lực lượng chủ yếu của họ về hướng Béc-lin, nhằm tiến ra sông En-bơ.
Sau chiến tranh, qua nhiều lần nói chuyện với các tướng Mỹ và Anh như Ai-xen-hao, Mông-gô-mê-ri, Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi, Clây, Rô-béc-sơn, Smít và nhiều tướng lĩnh khác, các tướng lĩnh Hồng quân mới được biết rõ thêm là, mãi đến khi pháo binh, súng cối, máy bay Xô-viết oanh tạc mãnh liệt, và cuộc tiến công hiệp đồng nhịp nhàng giữa xe tăng và bộ binh Liên Xô tại Ô-đe và Nây-xe đã làm rung chuyển đến tận gốc hệ thống phòng ngự quân Đức thì quân đội những nước Đồng minh mới dứt khoát chịu từ bỏ ý định đánh chiếm Béc-lin.
Khi ở Đại bản doanh Xô-viết nhận được thông báo của tướng Ai-xen-hao quyết định mở hai đòn đột kích - về phía đông bắc và phía nam nước Đức - và quân đội Mỹ sẽ dừng lại ở ranh giới đã thỏa thuận trên hướng Béc-lin, thì I.V. Xta-lin đã coi Ai-xen-hao như là người trung thành với lời hứa nhận trách nhiệm của mình.


Phía Đức:
Khi đặt kế hoạch cho cuộc chiến đấu bảo vệ Béc-lin, bộ chỉ huy tối cao Đức coi đó là trận đấu quyết định trên mặt trận phía đông. Để cố gắng khích lệ quân đội, ngày 14 tháng Tư, Hít-le ra lời kêu gọi:
“Chúng ta đã thấy trước đòn đột kích này và đã tổ chức một trận tuyến mạnh mẽ để chống lại, quân quân Đức sẽ vấp phải một lực lượng pháo binh khổng lồ. Để bổ sung cho những thiệt hại về bộ binh, chúng ta đã có vô số những binh đoàn mới, các đơn vị hỗn hợp và đơn vị phòng vệ nhân dân, họ đang củng cố trận tuyến. Béc-lin vẫn sẽ là của người Đức...”
Nhiệm vụ giữ những hướng chiến lược chủ yếu trên mặt trận phía đông do 3 cụm tập đoàn quân của Hít-le đảm nhiệm. Cụm tập đoàn quân “Vi-xla” phòng ngự theo dọc sông Ô-đe bảo vệ các cửa ngõ phía đông bắc và bắc Béc-lin. Cụm tập đoàn quân “Trung tâm” hoạt động ở phía nam, phòng ngự miền Xắc-xô-nia và những đường tiếp cận từ đông bắc tới các vùng công nghiệp của Tiệp Khắc. Cụm tập đoàn quân “Nam” bảo đảm nước Áo và các đường tiếp cận phía đông nam vào Tiệp Khắc. Chính cụm tập đoàn quân “Vi-xla” ngay từ đầu đã chuẩn bị tổ chức phản kích vào bộ đội của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a1. Song, sau khi bị đánh tan và bị mất căn cứ bàn đạp Pô-mê-ra-ni, các đơn vị còn lại của chúng đã rút lui về phía bên kia sông Ô-đe, và bắt tay vào tăng cường chuẩn bị phòng ngự trên hướng Béc-lin. Bộ chỉ huy Đức vội vã thành lập những đơn vị, binh đoàn mới, phần lớn là bọn SS để tăng cường cho cụm tập đoàn quân “Vi-xla”. Ví như chỉ lấy riêng một trại huấn luyện ở vùng Đê-bê-rít-xơ, trong một thời gian ngắn, chúng đã thành lập được 3 sư đoàn bổ sung cho cụm tập đoàn quân đó.
Ngay từ đầu, việc phòng ngự trên những đường tiếp cận trực tiếp vào Béc-lin được giao cho Him-le phụ trách và mọi cương vị lãnh đạo ở đây đều giao cho bọn tướng SS. Hành động như vậy, bộ chỉ huy Hít-le muốn nêu bật tính chất đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ. Trong tháng 3 và 4 năm 1945, 9 sư đoàn được điều động từ những hướng khác về hướng Béc-lin.
Nguyên tham mưu trưởng tác chiến trong tổng hành dinh bộ chỉ huy tối cao Đức, thượng tướng I-ốt khai trong lời cung như sau:
“Để bảo đảm quân số bổ sung cần thiết cho các đơn vị ở mặt trận phía đông lúc quân Nga bắt đầu cuộc tiến công kiên quyết nói trên, chúng tôi buộc phải giải thể toàn bộ tập đoàn quân dự bị, tức là tất cả các đơn vị bộ binh, xe tăng, pháo binh và những đơn vị binh chủng dự trữ, các trường quân sự, trường học để lấy người bổ sung cho quân đội”.
Bộ chỉ huy Đức vạch ra một kế hoạch chi tiết phòng thủ hướng Béc-lin. Bọn chúng hy vọng vào kết quả trận đánh phòng ngự trên sông Ô-đe, chiến trường có tính chất chiến lược ở phía trước Béc-lin. Với mục đích ấy, Bộ chỉ huy Đức đã thực hiện như sau:
Tập đoàn quân 9 của tướng Bu-xe làm nhiệm vụ bảo vệ thành phố được tăng cường thêm người và kỹ thuật. Phía sau tập đoàn quân, thành lập ra những sư đoàn và lữ đoàn mới. Các binh đoàn ở tuyến 1 được bổ sung, kiện toàn số người gần dủ theo biên chế.
Chúng đặc biệt chú ý tập trung và sử dụng xe tăng và pháo tiến công trong phòng ngự.
Từ Ô-đe đến Béc-lin quân Đức xây dựng một hệ thống công trình phòng ngự dày đặc, thành nhiều tuyến liên tục, mỗi tuyến có đến vài ba dãy chiến hào. Dải phòng ngự chủ yếu có tới 5 tuyến chiến hào liên tục. Quân Đức còn sứ dụng những tuyến chướng ngại thiên nhiên như: hồ, sông, kênh rào, khe rãnh. Tất cả những vùng dân cư đều được tổ chức thành khu phòng ngự vòng tròn.
Vùng đông bắc Béc-lin thành lập tập đoàn quân “ Stây-ne”, phòng thủ Béc-lin. Thành phố chia ra làm 8 khu phòng ngự vòng tròn. Thêm nữa, còn một đặc khu thứ 9 là đặc khu trung tâm Béc-lin. Ở đây có những tòa nhà của Chính phủ, Văn phòng Đế quốc, sở Giét-ta-pô, nhà Quốc hội.
Tại những ngả đường ven thành phố đã xây dựng 3 tuyến phòng ngự: vành đai ngăn chặn vùng ngoài, vành đai phòng thủ vùng ven và vành đai phòng thủ nội thành, xây đắp những vật chướng ngại kiên cố, chướng ngại chống tăng, ụ đống, các công trình bằng bê-tông. Cửa sổ nhà ở được củng cố, biến thành những lỗ châu mai.
Bộ chỉ huy Đức thành lập ra bộ tham mưu phòng thủ Béc-lin, báo trước cho nhân dân biết cần phải chuẩn bị chiến đấu quyết liệt trên các đường phố, trong từng căn nhà, và chiến đấu sẽ diễn ra trên mặt đất và cả những công trình ngầm dưới đất. Nhân dân được giới thiệu biết sử dụng đường xe điện ngầm, hệ thống cống rãnh ngầm, những phương tiện thông tin để tổ chức chiến đấu. Bộ tham mưu phòng thủ Béc-lin ra một mệnh lệnh đặc biệt chủ trương biến những khu phố dân ở thành những pháo đài. Mỗi một đường phố, một quãng đường, một ngôi nhà, một kênh đào, một cầu cống đều là một yếu tố hợp thành trong công cuộc phòng thủ chung cho thành phố. Hai trăm tiểu đoàn phòng vệ nhân dân được tổ chức và huấn luyện đặc biệt để tiến hành chiến đấu trong các phố xá.
Tất cả những lực lượng pháo cao xạ được dùng vào việc tăng cường cho pháo binh phòng ngự trên những ngả đường tiến vào Béc-lin và ngay trong thành phố. Hơn 600 khẩu pháo cao xạ cỡ trung bình và lớn được sử dụng làm pháo chống tăng, chống bộ binh. Ngoài ra, còn sử dụng cả những xe tăng đang sửa chữa nhưng pháo trên đó còn dùng được để làm thành những hỏa điểm. Những xe tăng ấy được đặt sâu dưới đất ở những ngã tư đường phố, gần những cầu xe lửa. Những đội xung kích chống tăng được thành lập, người lấy trong số đoàn viên đoàn thanh niên phát-xít “Hít-le”, được trang bị những quả đạn chống tăng Pan-xéc-phao-xtơ.
Hơn 40 vạn người được huy động vào làm các công việc phòng thủ Béc-lin. Trong thành phố tập trung những đơn vị cảnh sát và SS tinh nhuệ. Nhiều trung đoàn SS có những tiểu đoàn độc lập bố trí trong những vùng sát Béc-lin được điều động về để phòng thủ đặc khu ở Béc-lin. Môn-ke, đội trưởng đội bảo vệ Hít-le, chỉ huy những đơn vị SS đó.
Bộ chỉ huy phát-xít cho rằng những cố gắng đó sẽ bắt buộc Hồng quân phải tiến từng bước một, tuyến này đến tuyến khác, kéo dài trận chiến đấu tới mức làm cho quân tấn công bị mệt mỏi, hao hụt và bắt chúng ta phải dừng lại ở những cửa ngõ sát Béc-lin âm mưu là sẽ chống cự lại quân đội Xô-viết, giống như những trận đánh ở cửa ngõ Mát-xcơ-va năm 1941.

Diễn biến chiến dịch
Những việc làm của quân đội Xô-viết trước khi mở chiến dịch Béc-lin đã phát triển đến nỗi khó lòng mà che giấu, không cho quân Đức biết ý định thực sự. Đối với bất kỳ ai, dù không phải là người chuyên nghiên cứu về quân sự, cũng nhìn thấy rõ sông Ô-đe là cái chìa khóa mở cửa vào. Béc-lin, và sau khi vượt được sông Ô-đe, nhất định sẽ nhanh chóng mở ngay cuộc tiến công vào Béc-lin. Bộ chỉ huy Đức đang chờ đợi điều đó. Tướng I-ốt có khai sau này trong buổi lấy cung:
“Bộ Tổng tham mưu Đức hiểu rằng, chiến dịch lịch sử đánh chiếm Béc-lin sẽ được quyết định tại sông Ô-đe, vì vậy đã điều bộ phận chủ yếu của tập đoàn quân 9 phòng thủ Béc-lin ra tiền duyên. Còn các lực lượng dự bị mới thành lập thì được tập trung ở phía bắc Béc-lin để về sau này mưu toan tổ chức phản kích vào sườn các đơn vị của nguyên soái Giu-cốp”.
Với ý thức đầy đủ rằng quân Đức đã sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công vào Béc-lin. Vì vậy bộ tư lệnh phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 đã nghĩ đến mọi chi tiết để làm sao giành được yếu tố bất ngờ cao nhất cho cuộc đột kích đối với quân quân Đức:
Quyết định sử dụng một số lượng lớn máy bay, xe tăng, pháo binh và dự trữ vật chất để giáng vào đầu quân Đức phòng ngự một đòn thật mạnh mẽ, làm cho cho chúng bị rung chuyển đến tận gốc. Nhưng việc bí mật tập trung được trong một thời hạn ngắn toàn bộ số lớn khí tài và phương tiện đó tại các địa bàn hoạt động là rất khó khăn. Nhưng hậu cần quân đội Xô-viết đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cho trận đánh cuối cùng.
Nhiều đoàn xe hỏa chở các đơn vị pháo binh, súng cối, xe tăng phải chạy ngang đất nước Ba Lan. Trông bề ngoài thì đó chỉ là những đoàn xe chở hàng dân dụng vì trên các toa đĩa người ta thấy chất đầy củi gỗ và bao bì hạt giống. Nhưng khi tàu đến ga để bốc dỡ thì ngụy trang được dọn sạch, xe tăng, đại bác, xe kéo từ những toa lần lượt được đưa xuống và chỉ trong chốc lát được cất giấu vào công sự ngay. Những đoàn tàu hết hàng lại quay trở lại phía đông, và những đoàn tàu mới, chở khí tài kỹ thuật lại nối tiếp nhau vào ga. Một số lượng lớn đại bác hạng nặng, súng cối và xe kéo pháo được bổ sung cho Phương diện quân bằng cách như thế.
Ngày 29 tháng Ba, khi những trận đánh cuối cùng ở Pô-mê-ra-ni chấm dứt thì pháo và xe tăng được ngụy trang nghiêm ngặt đã được chuyển xong về phía nam. Bộ đội đã đóng kín các rừng lớn và nhỏ trên bờ phía đông sông Ô-đe. Trên hướng Béc-lin đã tập trung 22.000 khẩu pháo và súng cối các cỡ. Từng khẩu pháo đã được thiết bị trận địa bắn, đào hầm trú ẩn cho các khẩu đội và hố để chứa đạn.
Ban ngày tại căn cứ bàn đạp thường là vắng ngắt, nhưng đêm đến linh hoạt hẳn lên. Hàng nghìn người dùng cuốc, xẻng, xà-beng lặng lẽ đào đất. Việc làm trở nên nặng nhọc hơn, vì sắp đến vụ băng tan mùa xuân, đường sá đã bắt đầu lầy lội. Hơn 1,8 triệu mét khối đất đã được đào trong những đêm ấy. Nhưng sáng ra, các công việc khổng lồ đó không để lại một dấu vết gì vì tất cả đã được ngụy trang rất cẩn thận.
Đêm đêm, những đoàn lớn xe tăng, pháo, xe vận tải chở đạn dược, nhiên liệu và lương thực rầm rập kéo đến bằng nhiều đường và cả ở những chỗ không có đường. Riêng về đạn cho pháo, lúc bắt đầu chiến dịch đòi hỏi phải tập trung 7.147.000 viên. Muốn bảo đảm cho bộ đội tiến công có kết quả, không xảy ra một sự gián đoạn nào trong khâu cung cấp. Tính chất của chiến dịch đòi hỏi phải vận chuyển không ngừng đạn dược từ các kho của phương diện quân thẳng đến các đơn vị, không qua những khâu trung gian như kho của tập đoàn quân và sư đoàn.
Nền đường sắt ở đây được cải tạo để phù hợp với nền đường sắt Nga và đạn dược có thể chở đến tận gần sông Ô-đe. Muốn hình dung cho rõ quy mô tất cả những cuộc chuyên chở ấy, chỉ cần nói là, nếu như các đoàn tàu chở hàng cho chiến dịch được xếp nối đuôi nhau thì nó sẽ dài tới 1.200 km.
Trong thời gian tiến công từ Ô-đe đến Béc-lin, hậu cần cho các lực lượng tấn công được cung cấp rất đều đặn.
Nói chung, công tác chuẩn bị chiến dịch Béc-lin triển khai trên một quy mô và độ căng thẳng chưa từng thấy. Trên một khu vực bề mặt tương đối hẹp, trong một thời gian ngắn đã tập trung được 68 sư đoàn bộ binh, 3.155 xe tăng và pháo tự hành, và như trên đã viết, chừng 22.000 nòng pháo và súng cối. Toàn bộ khối lượng binh khí kỹ thuật, người và phương tiện vật chất ấy phải vượt qua sông Ô-đe. Ở đây cần làm một số lớn cầu và bến vượt, bảo đảm không riêng chỗ bộ đội qua sông, mà còn để tiếp tế lương thực sau này. Sông có đoạn rộng 380 mét. Băng bắt đầu tan. Các công trình xây dựng tiến hành rất sát tuyến chiến đấu, dưới những vụ oanh tạc có hệ thống của pháo binh, súng cối và máy bay quân Đức. Tuy nhiên, lúc các binh đoàn bắt đầu tiến ra những khu vực xuất phát thì cũng đã bắc xong 23 chiếc cầu qua sông Ô-đe và 25 bến phà. Vùng bến vượt được hỏa lực nhiều tầng của cao xạ yểm hộ, và hàng trăm máy bay tiêm kích đi tuần tiễu bảo vệ trên không.
Bắt đầu từ những ngày đầu tháng Hai, quân Đức tại Ô-đe hoạt động thường xuyên tích cực. Trong suốt tháng Ba và nửa đầu tháng Tư, không một ngày nào quân Đức ngừng cuộc chiến đấu căng thẳng hòng chiếm lại những căn cứ đầu cầu của Hồng quân ở vùng Kiu-xtơ-rin. Ngoài việc dùng máy bay ném bom tập trung, quân Đức còn dùng cả máy bay phóng thủy lôi để phá cầu và bến phà của chúng ta, nhưng những chiếc cầu ấy vẫn tiếp tục tồn tại. Cầu nào bị phá hoại được nhanh chóng khôi phục ngay. Hàng nghìn ki-lô-mét đường dây điện thoại được chôn ngầm dưới đất và mắc trên cột sẵn sàng đưa vào hoạt động.
Tại khu vực đột kích chủ yếu của phương diện quân, mật độ pháo binh đạt tới 270 nòng pháo cỡ 76 ly trở lên trên 1 km chính diện đột phá.
Việc tiêu diệt bọn quân Đức đóng ở Béc-lin và đánh chiếm Béc-lin là do Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 tiến hành phối hợp với một phần lực lượng của Phương diện quân U-crai-na 1.
Giữa Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a1 và U-crai-na 1 có quy định mối quan hệ hiệp đồng chặt chẽ về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, do Đại bản doanh phối hợp và điều chỉnh.
Thực tế, trong quá trình chiến đấu, để khép chặt vòng vây chiến dịch đối với toàn bộ quân quân Đức đóng ở Béc-lin, Đại bản doanh đã quy định sự hiệp đồng giữa các đơn vị cánh phải Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a1 với tập đoàn quân xe tăng 4 của Phương diện quân U-crai-na 1 khi đơn vị này tiến đến vùng Pốt-xđam - Ra-te-nốp - Bran-đem-bua.
Khi đặt kế hoạch chiến dịch chúng tôi đã quyết định sử dụng tập đoàn quân 69 và 33 từ khu vực Phrăng-cơ-phua - Na-ô-đe (phía nam đường sắt Phrăng-cơ-phua - Béc-lin) mở mũi tiến công thứ yếu theo hướng chung tới Bôn-xơ-đoóc để không cho tập đoàn quân 9 của quân Đức rút về Béc-lin sau khi Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 và U-crai-na 1 đột phá phòng ngự quân Đức tại Ô-đe và Nây-xe.
Đại bản doanh đã ra lệnh cho tư lệnh Phương diện quân U-crai-na 1 dùng một bộ phận lực lượng cánh phải của Phương diện quân đột kích từ vùng Cốt-bút đến Ben-đích - Búc-gôn nhằm cắt tập đoàn quân 9 quân Đức ra khỏi Béc-lin và cùng với bộ đội cánh trái Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a1 tiêu diệt chúng.
Đòn đột kích của các tập đoàn quân 69, 33, 3 thuộc Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 và đòn đột kích của tập đoàn quân cận vệ 13, một bộ phận của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 và tập đoàn quân 28 thuộc phương diện quân U-crai-na 1 đã khóa đuôi toàn bộ cụm phía đông nam của tập đoàn quân 9 quân Đức gồm 20 vạn tên, không cho chúng rút khỏi Béc-lin và sau đó đã nhanh chóng tiêu diệt chúng.
Cần phải nhấn mạnh đến tác dụng tích cực của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 thuộc phương diện quân Bê-la-rút-xi-a1 đã tiến vào phía đông nam Béc-lin để cắt đường rút của tập đoàn quân 9 về Béc-lin. Hành động đó làm cho trận đánh trong thành phố sau này được dễ dàng hơn.
Hai ngày trước khi tiến công Bộ tư lệnh Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 đã cho tiến hành trinh sát trên toàn bộ mặt trận, 32 đội trinh sát, lực lượng mỗi đội chừng một tiểu đoàn bộ binh đã chiến đấu để trinh sát trong hai ngày đêm 14 và 15 tháng 4. Qua đó, chúng ta đã xác định rõ thêm hệ thống hỏa lực phòng ngự và đội hình bố trí của quẩn quân Đức, thấy được chỗ mạnh và chỗ yếu nhất trong dải phòng ngự của chúng.Công tác trinh sát bằng sức mạnh ấy còn nhằm mục đích khác nữa, nó buộc quân Đức phải điều thêm lên tiền duyên nhiều sinh lực và khí tài để đến giai đoạn pháo bắn chuẩn bị ngày 16 tháng Tư, Hồng quân sẽ dùng toàn bộ pháo binh của Phương diện quân chế áp chúng. Trinh sát chiến đấu ngày 14 và 15 tháng Tư có kèm theo pháo bắn mạnh, có cả pháo cỡ lớn tham gia.
Quân Đức đã lầm tưởng trận trinh sát chiến đấu đó là bước mở đầu của trận tiến công. Chỉ cần nói rằng, các đội trinh sát Hồng quân đã đánh bật một số đơn vị quân Đức ra khỏi trận địa 1 mà chúng đang chiếm lĩnh và hầu như toàn bộ pháo binh Đức đã được sử dụng để đánh lui cuộc tiến công của các đơn vị trinh sát.
Sự việc xảy ra đúng như phía Bộ chỉ huy Liên Xô tính toán. Quân Đức bắt đầu vội vã điều những đội dự bị của chúng lên trận địa 2. Nhưng, bộ đội ta đã ngừng tiến quân và trụ lại trên những tuyến đã chiếm. Tình hình đó làm cho bộ chỉ huy quân quân Đức bối rối. Sau này, ta được biết là có một số tên chỉ huy Đức đã tưởng rằng như thế là cuộc tiến công của ta đã thất bại.
Trong những năm chiến tranh, quân Đức đã quen thấy Hồng quân thường cho pháo bắn chuẩn bị rồi xung phong vào buổi sáng, vì rằng bộ binh và xe tăng chỉ tiến công được ban ngày và không ngờ sẽ bị tiến công ban đêm. Thói quen thủ cựu đó đã bị Hồng quân lợi dụng.
3 giờ sáng ngày 16 tháng Tư. Ở mọi khâu đang tiến hành đợt kiểm tra cuối cùng công tác chuẩn bị mở màn tiến công. Pháo bắn chuẩn bị quy định vào 5 giờ sáng. Ngay lúc đó hàng ngàn khẩu pháo, súng cối và pháo hỏa tiễn “Ca-chiu-sa” thần thoại nhả đạn làm sáng rực cả địa hình, rồi tiếp sau là tiếng súng bắn, đạn nổ, bom phá rung chuyển không gian. Động cơ máy bay ném bom gầm rít liên hồi trên trời.
Bên phía quân Đức trong những giây phút đầu còn có vài tiếng súng máy nổ rời rạc, sau đó tất cả câm bặt. Tựa như bên quân Đức không còn vật gì sống nữa. Sau 30 phút pháo bắn cực mạnh, quân Đức không bắn trả lại được một phát nào. Như thế có nghĩa là chúng đã bị chế áp hoàn toàn và hệ thống phòng ngự của chúng đã bị rối loạn. Chúng tôi quyết định bắt đầu tổng công kích.
Hàng ngàn phát tín hiệu đủ các màu rạch xé bầu trời. Theo tín hiệu đó, 140 đèn chiếu đặt mỗi cái cách nhau 200 mét đồng loạt bật sáng lên. Hơn 100 tỷ oát chiếu sáng chiến trường, làm lóa mắt quân quân Đức, làm cho những mục tiêu công kích của xe tăng và bộ đội ta hiện rõ lên trong đêm tối. Cảnh tượng ấy đã gây cho tôi một ấn tượng lớn lao, mạnh mẽ, và có lẽ, trong suốt đời mình không có một cảm giác nào bằng.
Pháo binh càng bắn mạnh thêm, bộ binh và xe tăng nhịp nhàng tiến quân hiệp đồng chặt chẽ với nhau, dưới sự yểm hộ của hai làn hỏa lực. Đến mờ sáng bộ đội ta đã vượt trận địa 1 và bắt đầu tiến công vào trận địa 2.
Quân quân Đức ở vùng Béc-lin có một số lượng lớn máy bay, nhưng ban đêm chúng không thể sử dụng nó có hiệu quả, còn sáng ra thì các thê đội xung kích của ta đã ở sát nách quân quân Đức nên các phi công của chúng không dám bắn vào quân ta vì sợ nhầm vào quân chúng.
Binh lính Hít-le thực sự bị chìm ngập trong biển lửa và sắt thép dày đặc. Bức tường bụi và khói mù mịt ngút trời, thậm chí có chỗ đèn chiếu không xuyên qua nổi.
Không quân Xô-viết từng đợt, từng đợt nối tiếp nhau quần lộn trên chiến trường. Ban đêm, mấy trăm máy bay ném bom của ta oanh tạc những mục tiêu ở quá tầm bắn của pháo binh. Những máy bay ném bom khác hiệp đồng với bộ đội bắn phá lúc trời sáng và ban ngày. Trong những ngày đầu chiến dịch máy bay Xô-viết đã xuất kích hơn 6.550 lần chiếc.
Ngày đầu, kế hoạch quy định rằng pháo binh được bắn 1,197 triệu viên, song thực tế đã bắn 1, 236 triệu, tương đương 2.450 toa đạn dược, tức là gần 98.000 tấn sắt thép đã trút lên đầu quân quân Đức. Phòng ngự quân Đức bị phá vỡ và chế áp sâu đến 8 km, còn những trung tâm đề kháng của chúng thì một số ở sâu 10 - 12 km cũng bị tiêu diệt và chế áp.
Tướng pháo binh Đức Vây-linh, quân đoàn trưởng quân đoàn xe tăng 56 sau này đã khai trong buổi hỏi cung tại bộ tham mưu phương diện quân về ngày hôm đó như sau:
“Ngày 16-4, ngay những giờ tiến công đầu tiên, quân Nga đã đột phá vào sườn phải quân đoàn 101 tại khu vực của sư đoàn “Béc-lin”, tạo nên mối uy hiếp ở bên sườn trái quân đoàn xe tăng 56.
Nửa buổi hôm ấy xe tăng Nga đã đột phá vào sư đoàn bộ binh 3 thuộc biên chế của quân đoàn xe tăng SS 11, và uy hiếp đột phá vào sườn các đơn vị của sư đoàn “Mi-un-khê-béc”. Đồng thời quân Nga đã chế áp mạnh trên chính diện khu vực của quân đoàn tôi. Đêm rạng ngày 17-4, các đơn vị trong quân đoàn tôi bị thiệt hại nặng, buộc phải rút về những điểm cao phía đông Dê-ê-lốp”.
Sáng ngày 16-4, quân đội Xô-viết tiến quân thắng lợi trên khắp các khu vực ngoài mặt trận. Song, quân quân Đức cũng hồi tỉnh lại và bắt đầu tổ chức kháng cự; chúng cho pháo và súng cối từ phía những điểm cao Dê-ê-lốp bắn tới, và những tốp máy bay ném bom từ phía Béc-lin xuất hiện. Bộ đội Xô-viết càng tiến quân tới gần những điểm cao Dê-ê-lốp, thì sức kháng cự của quân quân Đức càng mạnh lên.
Địa giới thiên nhiên này gồm các điểm cao khống chế toàn vùng, lại có vách đứng. Nó là vật chướng ngại rất lợi hại về mọi mặt trên đường tiến quân tới Béc-lin. Nó đứng sừng sững như bức tường thành chắn ngang phía trước đội hình Hồng quân, che khuất vùng cao nguyên, nơi sẽ diễn ra trận tổng công kích vào những cửa ngõ sát nách Béc-lin. Chính tại đây, dưới chân các điểm cao Dê-ê-lốp, là nơi quân Đức hy vọng sẽ chặn được bộ đội Xô-viết. Chúng đã tập trung một số lượng cực lớn lực lượng và phương tiện.
Các điểm cao Dê-ê-lốp chẳng những đã hạn chế xe tăng hoạt động, mà còn là vật chướng ngại quan trọng cho cả pháo binh. Nó che khuất tung thâm phòng ngự quân Đức, làm cho từ mặt đất không thể quan sát thấy mục tiêu, pháo binh Hồng quân buộc phải khắc phục những khó khăn ấy bằng cách bắn nhiều hơn và thường phải bắn diện tích.
Đối với quân quân Đức, việc bảo vệ tuyến vô cùng quan trọng này có cả ý nghĩa lớn về mặt tinh thần. Bởi vì đằng sau nó là Béc-lin! Bộ máy tuyên truyền của Hít-le tìm mọi thủ đoạn đề cao ý nghĩa quyết định và tính kiên cố không thể vượt qua được của những điểm cao Dê-ê-lốp, lúc thì gọi nó là “cái khóa của Béc-lin”, lúc thì gọi là “pháo đài bất khả xâm phạm”.
Đến 13 giờ trưa phòng ngự quân quân Đức ở đây về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn.
Để tăng sức đột kích cho bộ đội đang tiến công, hai tập đoàn quân xe tăng của tướng M.E. Ca-tu-cốp và X.I. Bốc-đa-nốp được đưa vào chiến đấu lúc 14 giờ 30.
Lúc 15 giờ, xe tăng của hai Tập đoàn quân đã chọc thủng trận địa phòng ngự 1 và 2 của quân quân Đức, Phương diện quân tiến sâu được 6 km, nhưng hiện đang gặp sức kháng cự quyết liệt của quân Đức tại tuyến những điểm cao Dê-ê-lốp, (phòng tuyến phòng ngự về cơ bản còn nguyên vẹn).
Ngày 18 tháng Tư, Đại bản doanh ra lệnh thay đổi nhiệm vụ của Phương diện quân U-crai-na 1 và Bê-la-rút-xi-a 2 như sau: Phương diện quân U-crai-na 1 của I.X. Cô-nép sử dụng tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 tiến công băng qua Xô-xen, từ phía nam đánh vào Béc-lin, và cho tập đoàn quân xe tăng cận vệ 4 tiến vào khu vực Pốt-xđam, còn Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 của K.K. Rô-cô-xốp-xki phải nhanh chóng vượt sông Ô-đe và dùng một bộ phận lực lượng tiến công vu hồi vào phía bắc Béc-lin.
Từ sáng sớm ngày 17 tháng Tư, trên tất cả các khu vực chiến đấu của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 của Nguyên soái G.K. Giu-cốp đã nổ ra những trận đánh quyết liệt, quân Đức chống cự lại một cách tuyệt vọng. Tuy vậy, buổi chiều, khi các tập đoàn quân xe tăng của Hồng quân bước vào chiến đấu và hiệp đồng với các tập đoàn quân bộ đội hợp thành đã đột phá phòng ngự quân Đức tại nhiều đoạn trên các điểm cao Dê-ê-lốp, thì bọn quân Đức đã không chịu nổi đòn đánh của chúng ta và đến tối chúng bắt đầu rút lui. Sáng ngày 18 tháng Tư các điểm cao Dê-ê-lốp đã bị chiếm.
Sau khi phá vỡ tuyến phòng ngự Dê-ê-lốp, Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 đã có thể đưa tất cả các binh đoàn xe tăng vào chiến đấu trên một chính diện rộng.
Tuy vậy, ngày 18 tháng Tư, quân Đức vẫn cố gắng ngăn chặn cuộc tiến công của bộ đội Xô-viết, chúng tung tất cả những đội dự bị có trong tay ra, thậm chí lấy cả những đơn vị đang phòng thủ Béc-lin. Mãi đến ngày 19 tháng Tư, bị thiệt hại nặng, không chịu nổi sức ép mạnh của các tập đoàn quân xe tăng và bộ đội hợp thành Xô-viết, quân Đức mới chịu rút lui về vành đai phòng thủ ở ngoại vi Béc-lin.
Mấy ngày sau, Đại bản doanh hủy bỏ mệnh lệnh đã gửi cho K.K. Rô-cô-xốp-xki trước đây về việc giao cho Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 nhiệm vụ đánh vu hồi vào phía bắc Béc-lin. Bộ đội Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 vừa phải qua con sông Ô-đe có nhiều trắc trở vừa phải chiến đấu với quân quân Đức phòng ngự ở đó nên không thể tiến đánh Béc-lin trước ngày 23 tháng Tư.
Thực tế diễn biến các sự kiện chứng minh rằng, Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 2 không có lực lượng lớn để tiến công trước ngày 24 tháng Tư, mà vào thời gian đó chiến sự đã diễn ra trong các đường phố Béc-lin rồi, và các đơn vị bên sườn phải của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 thì đã đánh vu hồi vào phía bắc và tây bắc Béc-lin.
Cuộc tiến công của Phương diện quân U-crai-na 1 (tư lệnh là nguyên soái I.X. Cô-nép, ủy viên Hội đồng quân sự là tướng K.V. Crai-niu-cốp, tham mưu trưởng là tướng I.E. Pê-tơ-rốp) ngay trong ngày đầu tiên đã phát triển với tốc độ nhanh hơn. Đúng như dự kiến, phòng ngự quân quân Đức trên hướng đánh của phương diện quân yếu đến mức, sáng ngày 17 tháng Tư, Phương diện quân đã có thể tung cả hai tập đoàn quân xe tăng vào chiến đấu, tiến sâu được 20 - 25 km, vượt qua sông Sprê, và từ sáng ngày 19 tháng Tư, bắt đầu tiến quân vào Xô-xen và Lu-ken-van-đê.
Song, khi bộ đội của I.X. Cô-nép tiếp cận vùng Xô-xen thì sức chống cự của quân quân Đức tăng lên và tốc độ tiến quân của các đơn vị thuộc Phương diện quân U-crai-na 1 chậm lại. Thêm vào đấy, đặc điểm của địa hình cũng gây trở ngại cho hoạt động của tập đoàn quân xe tăng của tướng P.X. Rư-ban-cô, lúc này đội hình chiến đấu đang triển khai, Vì vậy, tư lệnh Phương diện quân I.X. Cô-nép đã gửi cho P.X. Rư-ban-cô bức điện như sau:
“Đồng chí Rư-ban-cô. Đồng chí đang tiến quân vòng vèo rồi. Một lữ đoàn đánh, còn cả tập đoàn nằm im. Tôi hạ lệnh: Phải dùng mấy đường và bằng đội hình triển khai chiến đấu băng qua đầm lầy để vượt qua tuyến Brút-lu-ken-van-đê... Chấp hành đến đâu báo cáo đến đấy.
Cô-nép.
20-4-45”.
Ngày 20 tháng Tư, ngày thứ 5 của chiến dịch, pháo tầm xa của quân đoàn bộ binh 79 thuộc tập đoàn quân xung kích 3 do thượng tướng V.L.Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy đã đánh vào Béc-lin. Trận công phá lịch sử vào thủ đô nước Đức bắt đầu. Đồng thời, tiểu đoàn pháo binh 1 thuộc lữ đoàn pháo nòng dài cận vệ 30 của tập đoàn quân 47 do thiếu tá A.I. Diu-kin chỉ huy cũng bắn một loạt đạn vào thủ đô bọn phát-xít.
Ngày 21tháng Tư, các đơn vị thuộc các tập đoàn quân xung kích 3, xe tăng cận vệ 2, xung kích 5 và 47 đột nhập ngoại vi Béc-lin rồi tiến vào nội thành chiến đấu. Tập đoàn quân 51, tập đoàn quân 1 Bộ đội Ba Lan và những binh đoàn khác nhanh chóng tiến tới sông En-bơ, ở đây họ sẽ gặp quân đội các nước Đồng minh.

Ngày 23 – 24 tháng Tư, bộ đội của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 đã chiến đấu trên những đường tiếp cận vào trung tâm Béc-lin. Các đơn vị thuộc tập đoàn quân xe tăng 3 của Phương diện quân U-crai-na 1 bắt đầu chiến đấu ở phía nam thành phố.
Ngày 25 tháng Tư, sư đoàn bộ binh 32 thuộc tập đoàn quân 47 và lữ đoàn xe tăng 65 của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 2 thuộc Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1 tiến công ở phía tây Béc-lin đã liên lạc được với quân đoàn cơ giới cận vệ 6 thuộc tập đoàn quân xe tăng cận vệ 4 của Phương diện quân U-crai-na 1 ở vùng Két-xin.
Như vậy là, quân quân Đức đóng ở Béc-lin với tổng số 40 vạn tên đã bị chia cắt thành hai bộ phận cô lập với nhau: bộ phận ở Béc-lin và bộ phận ở Phrăng-cơ-phua - Gu-ben.
Đội dự bị của Phương diện quân Bê-la-rút-xi-a 1, tập đoàn quân 3 của tướng A.V. Goóc-ba-tốp bước vào chiến đấu đã phát triển tiến công dọc theo kênh đào Ô-đe và Sprê và lợi dụng kết quả của tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 đã nhanh chóng tiến vào vùng Cơ-ních-xvu-xtéc-khau-đen. Từ đó, cuộc tấn công quay hẳn xuống phía nam và đông nam, đánh vào Tôi-pít, và ngày 25 tháng Tư đã liên lạc được với các đơn vị cánh phải của Phương diện quân U-crai-na 1 đang tiến công trên hướng tây bắc. Vòng vây bọn quân Đức đóng ở đông nam Béc-lin trong vùng Ven-đích - Búc-gôn đã khép chặt.
Những trận đánh trong nội thành Béc-lin cũng phát triển có kết quả. Khi bộ đội phương diện quân đột nhập thủ đô nước Đức, thì phòng ngự trên một số khu vực ở đây đã yếu, vì rằng, bộ chỉ huy Đức đã rút một phần quân lấy trong số các đơn vị phòng thủ nội thành ra tăng cường cho quân phòng ngự tại các điểm cao Dê-ê-lốp. Hồng quân nhanh chóng thâm nhập những vùng này và cơ động, đánh vu hồi vào những ổ đề kháng chủ yếu của quân quân Đức.
Nhưng khi vào tới các khu vực ở giữa thành phố, thì sức chống cự của quân Đức mạnh hẳn lên. Cả hai bên đều chiến đấu rất quyết liệt.
Phòng ngự quân quân Đức thật là dày đặc, lợi dụng mọi thuận lợi của chúng trong cuộc chiến đấu ở thành phố. Những ngôi nhà nhiều tầng, tường dày, và nhất là những hầm tránh bom, đạn đại bác, lại có giao thông hào ngầm liên lạc với nhau đã giữ một vai trò quan trọng. Lợi dụng những đường hầm ấy, bọn Đức có thể từ khu phố này vọt ra khu phố kia, và thậm chí còn có thể xuất hiện ở phía sau lưng bộ đội ta.
Khúc sông Sprê chạy ngang Béc-lin có bờ cao xây bằng xi-măng là một vành đai bao quanh khu trụ sở các bộ ở giữa thành phố. Mỗi tòa nhà đều có những đơn vị bảo vệ ít nhất cỡ tiểu đoàn.
Hồng quân tiến công liên tục ngày đêm, hết sức cố gắng để không cho quân Đức tổ chức lại phòng ngự tại những điểm tựa mới. Đội hình chiến đấu các tập đoàn quân bố trí thành từng thê đội có chiều sâu. Thê đội 1 tiến công ban ngày, thê đội 2 - ban đêm.
Chọi với hệ thống phòng ngự Béc-lin có chuẩn bị sẵn, chia thành từng phân khu, chi khu và khu vực phòng ngự một, chúng ta đã có một kế hoạch tiến công thật chi tiết.
Dải tiến công cho từng tập đoàn quân đánh vào Béc-lin được qui định trước. Từng bộ đội, phân đội được giao nhiệm vụ cụ thể đối với từng đường phố, quảng trường, mục tiêu. Một cuộc chiến đấu có tổ chức chặt chẽ đã được chuẩn bị để đối phó với sự lộn xộn gần như không tránh được của các trận chiến đấu trong thành phố. Những mục tiêu chủ yếu trước khì bị chiếm đều bị hỏa lực bắn tiêu diệt. Những tổ và đội xung kích gồm các binh chủng đã giữ vai trò chủ yếu trong các trận đánh ở nội thành Béc-lin.
Nhiệm vụ trung tâm của các trận đánh trong nội thành là không cho quân Đức tập trung lực lượng thành những quả đấm, chia cắt lực lượng quân Đức phòng thủ thành phố thành những ô riêng biệt và nhanh chóng tiêu diệt chúng.
Mỗi đợt tiến công của bộ binh và xe tăng đều được pháo binh và không quân hộ tống bằng những đòn tập kích hỏa lực vào tất cả các khu vực của mặt trận.
Hơn 11.000 khẩu pháo các cỡ cứ từng thời gian nhất định lại nã đồng loạt. Từ ngày 21-4 đến hết ngày 2-5, đã bắn vào Béc-lin gần 1,8 triệu phát đại bác. Tổng cộng hơn 36.000 tấn sắt thép đã trút lên đầu quân quân Đức phòng ngự trong thành phố.
Sang đến ngày thứ 3 của cuộc chiến đấu ở Béc-lin, Hồng quân đã cho chở pháo chuyên dùng bắn đạn nặng 500 kg cho các pháo đài bằng đường sắt riêng chạy từ nhà ga Xi-lê-di đến để bắn vào giữa thành phố.
Hệ thống phòng ngự Béc-lin đã tan thành bụi khói.
“Đến ngày 22 tháng Tư, - Cây-ten khai trong buổi lấy cung sau này, - đã rõ ràng là Béc-lin sẽ thất thủ, nếu như không rút tất cả bộ đội ở sông En-bơ về chống lại cuộc tiến công của quân Nga. Sau cuộc hội nghị giữa Hít-le, Gơ-ben, cùng với tôi và I-ốt, đã có quyết định: tập đoàn quân 12 chỉ để lại đội hậu vệ nhỏ chống lại quân Mỹ, còn toàn bộ sẽ tiến công vào quân Nga đang bao vây Béc-lin”.
I-ốt khai:
- Ngày 22 tháng Tư, Gơ-ben hỏi tôi: có thể nào dùng quân sự để tránh cho Béc-lin khỏi thất thủ không? Tôi trả lời, có thể được, nhưng chỉ trong trường hợp ta rút hết quân ở sông En-bơ về bảo vệ Béc-lin. Theo gợi ý của Gơ-ben, tôi báo cáo những ý kiến của mình cho quốc trưởng, quốc trưởng đồng ý và chỉ thị cho Cây-ten và tôi cùng với bộ tham mưu ra nằm ngoài Béc-lin, còn đích thân quốc trưởng lãnh đạo cuộc phản công.
Tư lệnh phòng thủ Béc-lin, tướng Vây-linh trong buổi hỏi cung đã khai:
- Ngày 25 tháng Tư, Hít-le tuyên bố với tôi: “Phải cải thiện tình hình (?). Tập đoàn quân 9 sẽ về Béc-lin để cùng với tập đoàn quân 12 đánh lại đối phương. Sẽ đánh vào mặt trận phía nam quân Nga. Bộ đội của Stây-ne sẽ từ phía bắc rút về để tổ chức đột kích vào cánh phía bắc”.
Tất cả những kế hoạch ấy đều là điều mơ tưởng hão huyền của Hít-le và các tướng lĩnh Đức, những tên đã mất khả năng suy nghĩ một cách thực tế. Đêm rạng ngày 23 tháng Tư, Cây-ten ra khỏi Béc-lin, tới bộ tham mưu tập đoàn quân 12, để tổ chức hiệp đồng giữa tập đoàn quân 12 và tập đoàn quân 9. Song, ngày hôm sau, Cây-ten đã không tài nào trở về thành phố được. Bộ đội Liên Xô đã đánh tan cả 2 tập đoàn quân ấy.
Hàng ngày có những bức điện do Hít-le ký truyền đi, nội dung tương tự như sau: “Tập đoàn quân 12 ở đâu?”; “Tại sao Ven-cơ không tiến công?”; “Séc-ne ở đâu?”; “Phải tiến công ngay?”; “Khi nào các người tiến công?”.
Tập đoàn quân xung kích 5 nhận nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng là đánh c

ductienvt
30-07-2012, 10:12 AM
Cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại với sự phá sản của chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng”


Cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại với sự phá sản của chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” - “Blitzkrieg” của phát-xít Đức

Quân đội phát-xít Đức từ trước khi tấn công vào Liên Xô đã có kinh nghiệm chiến đấu trên các chiến trường khắp châu Âu trong hai năm: Pháp, Bỉ, Hà Lan và một số nước khác. Các cuộc chiến tranh này đã khẳng định tính hợp lý của chiến thuật “Blitzkrieg” (Đánh nhanh thắng nhanh) của học thuyết quân sự Đức.
Các cuộc chiến tranh ở Pháp, Bỉ, Hà Lan và nhất là cuộc chiến tranh chống Ba Lan tháng Chín năm 1939 đã khẳng định trong điều kiện chiến tranh với một kẻ địch yếu thì những hình thức tiến hành chiến dịch mà quân đội Hít-le đề ra ngay từ hồi đó (tháng Chín năm 1939) là rất hợp lý. Trong tiếng Đức, “Blitzkrieg” là một từ ghép blitz-krieg, có nghĩa là cuộc chiến tranh chớp nhoáng, mà trong cuộc chiến tranh đó hành động tấn công căn bản là dùng khối lượng xe tăng thật lớn với sự yểm hộ của phi cơ thọc sâu một cách táo bạo vào tung thâm của đối phương.

Sự phát triển của chiến thuật Blitzkrieg
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 18) là một quá trình phát triển của chiến thuật của quân đồng minh trong việc sử dụng khối lượng bộ binh dày đặc tấn công sau một thời gian dài bắn phá mãnh liệt, nhưng do hiệu quả của pháo binh còn thấp và chủ yếu lúc đó quân Đức chuyển sang chiến thuật phòng ngự trận địa kiên cố. Các năm 1916 – 18 quân Đức bố trí đội hình chiến đấu thành từng toán, nên quân đội Anh – Pháp phải trang bị rất nhiều phương tiện hỏa lực: súng máy, pháo binh để sát thương cho bộ binh và kị binh càng nhiều càng tốt. Nhưng cũng trong cuộc chiến tranh này, sự xuất hiện của hai loại phương tiện chiến tranh mới có tính cách mạng đã làm thay đổi nhiều trong các học thuyết chiến tranh sau này: xe tăng thiết giáp và máy bay có vũ trang. Thứ nhất, chúng trở nên bất khả xâm phạm với các loại vũ khí bộ binh và có sức cơ động chiến đấu rất cao. Đó chính là những ưu điểm làm thay đổi toàn bộ những nhìn nhận về cách thức tiến hành chiến tranh.
Sau chiến tranh, nhiều ý kiến tập trung vào phát triển các loại phương tiện chiến tranh mới này được đề xuất đồng thời các nghiên cứu về chiến thuật chiến đấu của các phương tiện đó, trong sự phối hợp chiến đấu với các binh chủng khác. Trong thời kỳ của hải quân, người ta phát triển cả các phương tiện chở máy bay trên biển, để có thể đưa máy bay chiến đấu đến gần lãnh thổ đối phương hơn, và dần dần làm giảm nhu cầu trang bị pháo hạm tầm xa. Tại Nga, vì đất rộng nên sự xuất hiện của các đơn vị lớn bộ đội nhẩy dù đã đem lại cho bộ binh những sức cơ động chiến đấu mới, và các hạm đội mạnh, lớn với số lượng lớn xe tăng hạng nhẹ tốc độ nhanh đã được hình thành để tăng cường đáng kể sức chiến đấu cơ động của bộ binh. Ở nước Anh, dù ngăn cách với Châu Âu bằng eo biển Măng-sơ, nhưng người ta cũng phát triển những đơn vị lớn được trang bị tốt “bộ binh thiết giáp” hay “bộ binh xe tăng” để hỗ trợ cho bộ binh tấn công bằng sự yểm hộ trực tiếp của hỏa lực xe tăng. Chính vì thế mà xe tăng hạng nhẹ được chế tạo nhiều để thay thế cho kị binh đã tỏ ra lỗi thời.
Các quân đội khác như Pháp và Ba Lan vẫn khăng khăng với lý luận chiến tranh trận địa lỗi thời: xây dựng hệ thống phòng ngự công sự dàn đều với những bãi mìn như ở trong chiến lũy Ma-gi-nô, mặc dù có trang bị nhiều boong-ke bê-tông và pháo binh hạng nặng, chiến thuật phòng ngự này tỏ ra quá yếu trong chiến tranh hiện đại. Còn quân đội Ba Lan thì thậm chí còn say sưa với việc phát triển kị binh. Cả hai nước đều có một lực lượng không quân yếu ớt.
Quân đội Đức sau chiến tranh, bỏ lại những khó khăn hạn chế của một nước bại trận, đã tập trung vào việc phát triển lý luận quân sự mới, kéo theo sự phát triển nhanh chóng của số lượng xe tăng và máy bay tấn công loại mới trang bị cho quân đội, chủ yếu dựa trên lý luận quân sự của Anh Basil Liddell-Hart, đã được phổ biến và tuyên truyền rộng rãi trong thời hậu chiến.
Rất sớm trong những năm 1920, tướng Đức von Seeckt, đứng đầu quân đội Đức lúc đó đã viết rằng đóng vai trò quyết định những cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ thuộc về các lực lượng tấn công nhỏ hơn, nhưng có trang bị hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, với sự yểm hộ hiệu quả của một lực lượng không quân tấn công mạnh. Một viên tướng bộ binh Đức, Hên-giơ Gu-đê-ri-an (Heinz Guderian) được bổ nhiệm chủ nhiệm trường xe tăng Nga - Đức ở Ca-dan được thành lập đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trong huấn luyện chiến đấu trên chiến trường Nga và có nhiều đóng góp trong việc dứt bỏ hẳn những gì rơi rớt lại của cuộc đại chiến thế giới I mà nước Đức đã là nước bại trận.
Gu-đê-ri-an đọc những tư tưởng Lidell-Hart với những ý tưởng phát triển mới, và sau này đã có vài năm để hoàn thiện chúng trên thực tế huấn luyện chiến đấu.
Chính những tư tưởng của Gu-đê-ri-an lại được sự hậu thuẫn của những nhân tố mới của cuộc đại chiến sẽ nổ ra: chủ nghĩa phát-xít và Đảng quốc xã, cầm đầu là A-đôn-phơ Hít-le cầm quyền ở nước Đức từ năm 1933. Chiến tranh được coi là một phương tiện cần thiết để tiến tới bá chủ thế giới. Giới cầm quyền Đức gấp rút tái trang bị và tái vũ trang quân đội theo hướng quân phiệt hóa mọi hoạt động xã hội.
Hít-le và bộ sậu hiểu rất rõ sự khác biệt giữa cuộc chiến tranh sắp tiến hành so với cuộc chiến tranh đã qua, và quả thực đã đạt được những kỳ tích rực rỡ trong việc vượt qua những khó khăn của một nước thua trận mà xây dựng lại nền công nghiệp quốc phòng để phục vụ cho những chiến lược và chiến thuật quân sự mới. Chính trong môi trường này, những ý tưởng của Gu-đê-ri-an tìm được mảnh đất màu mỡ để phát triển: xây dựng những lực lượng xe tăng và bộ binh cơ giới hóa lớn và hắn ta đã tìm được những công cụ cần thiết. Hắn đã phải thốt lên: “Đó là những gì tôi cần, và đó là những gì tôi muốn có”. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của chính Hít-le, công nghiệp xe tăng đã chế tạo rất nhiều xe tăng nhỏ và xe thiết giáp tốc độ cao để trang bị cho bộ binh cơ giới hóa, và lực lượng này phát triển hết sức nhanh. Công nghiệp xe tăng phát triển đến một quy mô khổng lồ. Gu-đê-ri-an đã trở thành một sư đoàn trưởng xe tăng của sư đoàn xe tăng Con Báo đầu tiên, và năm 1938, hắn trở thành Quân đoàn trưởng của Quân đoàn xe tăng Con Báo Đức, sau đó trở thành tư lệnh của lực lượng cơ động chiến đấu Đức, trực tiếp dưới quyền Tổng tư lệnh Hít-le. Với những kinh nghiệm của hắn và trang bị rất tốt và hiện đại, quân đội Đức đã sẵn sàng tiến hành chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” trên chiến trường.
Trang bị và vũ khí của chiến thuật “Blitzkrieg”
Nhìn chung, chiến thuật “Blitzkrieg” của quân đội phát-xít Đức được xây dựng trong thời kỳ của xe tăng, của máy bay tấn công chiến thuật và chỉ huy bằng vô tuyến điện, với phương châm “tốc độ” và “hỏa lực”.
• Tập trung lực lượng tấn công cơ động mạnh: cơ động, hỏa lực, tấn công nhanh, thọc sâu bằng khối lượng xe tăng và cơ giới lớn. Lúc này công nghiệp xe tăng Đức đã đạt được những thành tựu lớn trong chế tạo ra những loại xe tăng mới rất tốt, hiện đại, còn bộ binh thì có các vũ khí hiệu quả, hỏa lực mạnh, vũ khí chống tăng cũng tốt. Các lực lượng của các đơn vị tấn công được huấn luyện tốt, thiện chiến, say máu nhất là lính tăng. Đi cùng xe tăng là bộ binh cơ giới được bảo vệ tốt khỏi sức sát thương của đối phương và có vũ khí chống tăng tốt. Loại bộ binh này chỉ dùng xe để di chuyển, còn thì chiến đấu bằng chân trên mặt đất.
• Yểm hộ bằng khối lượng không quân tấn công lớn và mạnh: Pháo binh là một lực lượng yểm hộ tốt cho tấn công nhưng tính cơ động quá thấp, nên giới quân sự phát-xít nghiêng về phát triển các lực lượng không quân tấn công nhất là không quân oanh tạc. Đến đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai, không quân Đức đã được trang bị một số lượng lớn máy bay oanh tạc bổ nhào Gioong-ke Ju-87 (Stuka), nhanh chóng phối hợp cùng xe tăng và bộ binh cơ giới trong tấn công. Thời gian này cũng chính là thời gian mà những quan điểm học thuyết sai lầm của Đu-ê nhấn mạnh vai trò của một “hạm đội ném bom mạnh” ảnh hưởng sâu sắc trong giới quân sự Xô-viết, chế tạo những máy bay ném bom khổng lồ nhưng bất lực. Thực tiễn chiến tranh đã chứng minh vai trò tấn công thọc sâu vô hiệu hóa chủ lực bộ binh, đánh các cầu, đường, bến vượt, sân bay và pháo binh đối phương của loại Stuka rất hiệu quả này. Và quả thực chúng đã làm mưa làm gió trên chiến trường châu Âu.
• Quân nhảy dù là một dạng mới, khác của hoạt động không trợ, được sử dụng trong việc cần chiếm những mục tiêu chiến thuật đặc biệt mà không được phá hủy nó. Trong chiến thuật “Blitzkrieg” quân dù đổ bộ đường không thường được dùng để chiếm cầu và các đầu mối giao thông để đảm bảo tốc độ tiến quân của xe tăng và bộ binh cơ giới.
• Chỉ huy chiến đấu bằng vô tuyến điện – trong khi đến tận năm 1940, các cơ quan tham mưu của quân đội Pháp vẫn chưa dùng vô tuyến điện để chỉ huy thì với quân Đức, mỗi một chiếc xe tăng, xe thiết giáp và máy bay đều có máy thu phát vô tuyến đàm thoại trực tiếp. Chính đây là một ưu thế hơn hẳn của quân đội Đức trong chỉ huy chiến đấu hợp đồng trong chiến thuật “chiến tranh chớp nhoáng”.
• Tính mềm dẻo và đơn giản trong chiến thuật: chiến thuật chiến đấu của quân đội Đức hết sức mềm dẻo, phụ thuộc vào tình huống thực tế mà quyết định nhanh chóng thông qua liên lạc vô tuyến, kết hợp với hỏa lực mạnh của xe tăng cơ động và không trợ, cho phép quân Đức lựa chọn phương án tác chiến tối ưu nhất ngay trong trận đánh. Chiến thuật “blitzkrieg” là rất đơn giản dựa trên trang thiết bị kỹ thuật chiến tranh mới, hiện đại và hiệu quả, và là một phần của tính mềm dẻo trong chiến thuật tấn công. Quân Đức tấn công theo tinh thần của kị binh trước đây, không có gì khác.
• Bất ngờ và gây hoang mang: trước lúc tấn công, quân Đức thường sử dụng biệt kích thám báo nhảy dù vào hậu phương đối phương, cắt đường dây thông tin liên lạc, khủng bố, gây hoang mang… và kết hợp với chiến thuật tấn công nhanh, chớp nhoáng và mạnh gây choáng cho đối phương, bỏ chạy liên tục không thể tổ chức đánh lại được.
• Làm chủ trên không - chiến lược phát triển không quân đúng đắn của phát-xít Đức trong thời kỳ đầu chiến tranh đã đem lại những kết quả lớn: phát triển một lực lượng thích đáng không quân tiêm kích nhằm làm chủ trên không, tiêu diệt ngay không quân đối phương khi còn ở trên sân bay.
• Hậu cần – công tác hậu cần trong chiến thuật “Chiến tranh chớp nhoáng” là rất quan trọng, do tốc độ tiến rất nhanh của các đơn vị tấn công mà các đơn vị hậu cần thường rớt lại phía sau, dễ dẫn tới việc các chi đội tiên phong phải dừng lại vì thiếu đạn dược và nhiên liệu.
“Blitzkrieg” trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai:
Như trên đã nói, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã hoàn toàn đập tan lý luận lỗi thời về chiến tranh trận địa mà một số lớn các nhà lãnh đạo quân sự nhất là Pháp vẫn khăng khăng giữ lấy trong những năm sát trước chiến tranh. Kỹ thuật mới, nhất là xe tăng và máy bay đã có quá nhiều thay đổi lớn làm tính chất của chiến đấu cũng thay đổi theo. Các sư đoàn quân xe tăng của phát-xít Đức có sự yểm hộ của không quân đã dễ dàng chọc thủng những mặt trận phòng ngự của quân đội Anh, Pháp dàn đều nhưng không sâu và do đó rất yếu, nên quân Đức dễ dàng vượt qua khu phòng ngự chiến dịch mà không gặp phải bất kỳ một sự kháng cự mãnh liệt nào. Bọn phát-xít Đức nhanh chóng làm chủ trên không; chủ yếu là do chúng đã tiêu diệt được một bộ phận lớn các phi cơ Anh, Pháp trên các sân bay, nên không quân Đức rảnh tay tập trung lực lượng lớn vào công kích mọi điểm trong hệ thống phòng ngự của đối phương, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lực lượng dự trữ của đối phương, làm tê liệt mọi sự chỉ huy, phá tan việc chấn chỉnh lại quân đội và phá hoại mọi công tác hậu phương. Bộ chỉ huy Pháp đã không chuẩn bị đối phó với cách thức tiến hành chiến tranh như vậy nên ở một mức độ đáng kể đã làm Pháp bị thất bại nhanh chóng hơn.
Nét đặc biệt nhất là phương pháp tiến hành chiến dịch của quân đội Hít-le sau khi đã kết thúc chiến cục ở Pháp là tấn công bằng cách tập trung cao độ lực lượng xe tăng có sự yểm hộ tích cực của máy bay trên một chính diện mặt trận nhỏ. Trong cuộc chiến đấu với những đối thủ tương đối yếu và không sẵn sàng chiến đấu, cách tấn công như vậy đã làm cho quân đội phát-xít Đức thu được thắng lợi.
Qua kinh nghiệm chiến đấu ở Pháp đã khiến Bộ tổng tham mưu lục quân Đức phát-xít đề ra được một số kết luận về các phương pháp tiến hành chiến đấu tấn công (chỉ thị ngày 20 tháng Mười một năm 1940): “Nhanh chóng, cơ động, tập trung lực lượng ở hướng tấn công chính, dũng cảm giải quyết và hoàn thành việc tấn công đó là cơ sở của thắng lợi. Để giành được thắng lợi việc thực hiện bất ngờ về mặt chiến dịch cũng như chiến thuật cũng có tác dụng quyết định. Cương quyết công kích không có sợ gì hai bên sườn bị đe dọa mới có thể phá tan được mặt trận của đối phương. Trong khi truy kích đối phương với các phương tiện đảm bảo vận động, ồ ạt dũng cảm tiến lên thì địch khó bảo đảm được việc tổ chức và củng cố trận tuyến phòng ngự mới. Về mặt đó việc phối hợp động tác với các phi cơ oanh tạc đặc biệt có giá trị rất lớn”. Như vậy là kết quả của chiến đấu tấn công trước hết phụ thuộc vào sự tấn công bất ngờ. Việc phối hợp chiến đấu với máy bay được đề lên hàng đầu còn tầm quan trọng của pháo binh thì coi nhẹ.
Dựa trên cơ sở tác chiến ở Pháp, bộ chỉ huy phát-xít Đức đi đến kết luận là xe tăng cần phải chỉ hoạt động trong tổ chức sư đoàn xe tăng, còn việc để các đơn vị xe tăng phối thuộc với các sư đoàn bộ binh là không đúng. Theo quan điểm của bọn Đức phát-xít, trong tấn công sư đoàn xe tăng đã tự xác định vai trò quan trọng cốt yếu và là một binh đoàn không thể xé lẻ được. Trong chỉ thị có nêu ra yêu cầu các sư đoàn xe tăng phải phụ thuộc về chiến thuật của bộ binh nếu như đơn vị đó tấn công qua khu vực của nó. Nếu như trong quá trình tấn công các lực lượng căn bản của sư đoàn xe tăng tách rời khỏi bộ binh thì sự phụ thuộc lại thay đổi, lúc đó bộ binh yểm hộ cho xe tăng là cần thiết để xe tăng có thể tiến lên được.
Bộ chỉ huy phát-xít Đức cũng có kết luận việc cần thiết phải sử dụng nhiều chi đội đi trước trong khi tấn công vào phòng ngự chiến dịch, các đơn vị này sẽ tiến sâu lên trước. Thường thường là các chi đội đi trước được điều lên khi đang tấn công và nhất là trong truy kích để chiếm các đầu cầu, các địa điểm có dân cư và những vị trí quan trọng về chiến thuật. Tính chất vận động của các chi đội được phái đi trước có ý nghĩa rất đặc biệt. Trong chi đội tiên phong có trang bị các đại bác bộ binh, dã pháo, súng cối và pháo cao xạ 88mm là rất hợp lý.
Dựa trên kinh nghiệm năm 1940, bộ chỉ huy của Hít-le yêu cầu các đơn vị tiếp tục truy kích về đêm để có thể bất ngờ tiếp cận đối phương. Trong khi truy kích và tiếp cận, việc tấn công của xe tăng vào lúc hoàng hôn và ban đêm thường được coi là lúc có thể tiêu diệt được hoàn toàn đối phương.
Việc tấn công vào nơi bố trí phòng ngự sẵn của đối phương yêu cầu phải tiến hành sau khi đã tấn công bằng hỏa lực, đồng thời trong quá trình tấn công hỏa lực tập trung bắn gần của bộ binh cũng có tầm quan trọng đặc biệt lớn lao.
Đây là một số kết luận trong các chiến cục năm 1940, là những điều cơ bản trong các phương pháp chiến thuật chiến đấu của quân đội phát-xít Đức năm 1941 ở mặt trận phía Đông.
Bên cạnh những điểm mạnh, chiến thuật của quân đội phát-xít Đức trước khi tấn công vào Liên Xô cũng có những sai lầm lớn. Chiến thuật của Đức cho rằng sẽ chiến đấu với một đối phương yếu, trang bị và huấn luyện kém, trình độ vận động thấp và lại có những quan điểm tiến hành chiến tranh đã lỗi thời. Trong cuộc chiến đấu với một đối phương như vậy, bọn phát-xít Đức hy vọng rằng sự tấn công bất ngờ, bất thình lình thậm chí có thể dùng những lực lượng không lớn lắm cũng đủ tiêu diệt đối phương. Chúng tính toán sẽ làm cho đối phương phải kinh hoàng, hoang mang để đạt được thắng lợi và trước hết là để cho đối phương không kịp tổ chức chống lại. Việc đột nhập vào hậu phương bằng những đơn vị cơ giới không lớn lắm để gây hoang mang; việc đổ bộ những đơn vị đổ bộ chiến thuật; việc hoạt động của những chi đội đi trước cách rất xa chủ lực; việc bắn phá ầm ỹ, loạn xạ… tất cả những biện pháp đó là cái mà bọn Hít-le đã nghiên cứu trong các trận chiến đấu hồi năm 1939 – 40 dựa trên việc nghiên cứu tâm lý của một đối phương kém vững vàng đã được áp dụng một cách máy móc khi chiến đấu với quân đội Xô-viết, mà không tính gì đến đặc điểm và khả năng của họ. Nếu như lúc bắt đầu chiến tranh trong điều kiện tấn công bất ngờ nó có những hiệu quả nhất định thì không bao lâu chiến thuật mạo hiểm đó đã bị phá sản hoàn toàn. Tinh thần dũng cảm và kiên cường đặc biệt của các chiến sỹ Xô-viết trong các cuộc chiến đấu gay go đã chứng minh sự sai lầm trong chiến thuật của địch.
Bên cạnh những sai lầm về phương pháp chiến thuật khác của quân đội phát-xít Đức, cần phải nói đến sự đánh giá quá cao một số quân chủng mà coi nhẹ các thứ khác. Vì đặt tính chất bất ngờ và nhanh chóng lên hàng đầu, nên bọn chỉ huy Đức hoàn toàn dựa vào những quân chủng vận động cao như các binh đoàn xe tăng và cơ giới hóa có sự yểm hộ của không quân. Về nguyên tắc, vai trò của vận động của quân đội trong giai đoạn cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2 có giá trị rất lớn. Nhưng trong chiến thuật của quân đội phát-xít lại coi các quân chủng đó có tầm quan trọng tuyệt đối vì chúng có tư tưởng quá đề cao tính chất vận động và dẫn đến chỗ sai lầm trong việc sử dụng các quân chủng khác, mà trước hết là pháo binh, là binh chủng của Đức trong suốt quá trình chiến tranh bị coi nhẹ. Quân đội Xô-viết đã nhận ra được sự phiến diện đó và đối phó lại với chiến thuật sử dụng nhịp nhàng các binh chủng, đó là một điểm hơn hẳn so với chiến thuật của phát-xít Đức.
Việc huấn luyện chiến thuật của Hồng quân hồi đầu chiến tranh về cơ bản là thích hợp với yêu cầu và đặc điểm của chiến đấu hợp đồng. Tuy vậy quân đội Xô-viết lúc đó còn thiếu thực tế chiến đấu và chưa được huấn luyện đầy đủ để chống lại một số phương pháp chiến thuật của phát-xít Đức là những phương pháp ở một chừng mực nhất định đối với Hồng quân là một sự bất ngờ. Với phương pháp đó, quân Đức có thể sử dụng tập trung trong những mặt trận hẹp các sư đoàn xe tăng là lực lượng tấn công ở thê đội 1 của quân cơ giới hóa có sự yểm hộ đắc lực của không quân, sử dụng những đội đổ bộ đường không nhỏ, đồng thời sử dụng rộng rãi các binh đoàn đi trước để hoạt động trong tung thâm phòng ngự chiến dịch. Điều đó đã khiến cho Bộ chỉ huy Xô-viết ngay từ đầu chiến tranh đã phải có những quan điểm chính xác về phương pháp chiến đấu chống đơn vị xe tăng của Đức đặc biệt là về tổ chức phòng ngự chống tăng… Trong thời kỳ đầu của cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại quân Đức đã sử dụng toàn bộ những kinh nghiệm có sẵn, do đó những đặc điểm về chiến thuật và chiến dịch của Đức đã bộc lộ hoàn toàn.
Quân Đức định nhanh chóng tấn công bất ngờ chủ yếu dùng các đơn vị vận động có sự yểm hộ của không quân chọc sâu vào tung thâm phòng ngự, chia cắt binh lực bố trí của Hồng quân, bao vây và tiêu diệt các đơn vị đó, đồng thời chiếm các nơi có lợi trong tung thâm để tiêu diệt các lực lượng dự bị chiến dịch, ngăn cản việc vận động của các đơn vị đó ra mặt trận. Lực lượng tấn công cơ bản của Đức là các đơn vị xe tăng thuộc các sư đoàn xe tăng và mô-tơ hóa đang tấn công ở hướng chủ yếu của chiến dịch. Khi tấn công có phối hợp chặt chẽ với không quân trên một phạm vi hẹp của mặt trận, các đơn vị xe tăng của quân Đức trong quá trình tác chiến ở biên giới đã hoạt động nhanh và linh hoạt, với những trận công kích quyết liệt đã đạt được những kết quả chiến dịch rất lớn. Ví dụ như Tập đoàn quân xe tăng số 2 và 3 phối hợp tấn công với Tập đoàn quân dã chiến số 4 và 5 trong giai đoạn từ 22 đến 27 tháng Sáu năm 1941 đã tiến sâu đến 300 ki-lô-mét và liên lạc được với vùng Min-xcơ. Các sư đoàn xe tăng trong các đơn vị đó trong tấn công đã phối hợp chặt chẽ với các sư đoàn cơ giới hóa là những đơn vị có tốc độ tấn công nhanh tương đương, và với sự tấn công của máy bay oanh tạc. Các sư đoàn cơ giới hóa đã chiếm các vị trí phòng ngự quan trọng, củng cố các khu vực mà các sư đoàn xe tăng đã chiếm được đang phát triển thắng lợi trong tung thâm.
Các Tập đoàn quân dã chiến của phát-xít Đức tấn công trên một chính diện tương đối rộng, từ 80 đến 200 ki-lô-mét. Các Tập đoàn quân xe tăng với một mật độ dày đặc hoạt động trong những khu vực chính diện rất nhỏ. Các sư đoàn xe tăng thuộc các Tập đoàn quân đó trung bình hoạt động trên một chính diện chỉ từ 8 đến 10 ki-lô-mét. Trong quá trình chiến đấu ở biên giới, tốc độ tấn công trung bình của Tập đoàn quân xe tăng Đức là từ 35 đến 55 ki-lô-mét một ngày, còn của các Tập đoàn quân dã chiến là từ 10 đến 20 ki-lô-mét. Việc chỉ huy bộ đội xe tăng nhất là đối với các đơn vị đang tấn công rất linh hoạt và kịp thời vì dùng vô tuyến điện.

Đặc điểm trong chiến thuật của phát-xít Đức và Hồng quân trong thời kỳ đầu cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại:
Việc tấn công do các sư đoàn bộ binh và xe tăng tiến hành, các đơn vị này nằm trong biên chế của Quân đoàn cơ giới hóa. Các sư đoàn bộ binh hoạt động ở hướng chủ yếu thì diện tấn công rộng từ 3 đến 6 ki-lô-mét. Đôi khi các sư đoàn bộ binh có tăng cường từ 1 đến 2 trung đoàn pháo và xe tăng, mật độ pháo binh trong khu vực tấn công của sư đoàn chỉ có khoảng từ 50 đến 70 khẩu trên một ki-lô-mét chính diện mặt trận. Các sư đoàn bộ binh thường tấn công thành đội hình có hai thê đội, ít khi có một thê đội, đặc biệt, đặc điểm của nó là nhanh chóng vận động và cơ động linh hoạt. Bộ chỉ huy các sư đoàn liên tục tấn công thật sâu vào trong tung thâm và nhiệm vụ chung không chia thành từng giai đoạn. Các sỹ quan chỉ huy lính tác chiến và binh đoàn được phép linh hoạt và chủ động trong khuôn khổ nhiệm vụ chung.
Hoạt động của các đơn vị tiên phong dùng để thọc sâu vào tung thâm phòng ngự của Hồng quân và để chiếm các vị trí quan trọng trong khi hành tiến.
Nhưng cũng chính những chiến thuật này của quân Đức đã ảnh hưởng rất lớn đến chiến thuật phòng ngự của Hồng quân, nhất là trong giai đoạn mùa hè và mùa thu 1942. Chỉ huy Hồng quân đã nhận được ra rằng, với chiến thuận đó tất yếu phải có được một hệ thống vững chắc, linh hoạt trong phòng ngự chống tăng. Trong bộ đội Hồng quân đã bắt đầu sử dụng rộng rãi hơn việc bắn thẳng, không phải chỉ như trước chỉ pháo chống tăng 45mm mới bắn thẳng, mà cả các cỡ pháo lớn hơn. Hệ thống phòng ngự phải được tổ chức và xây dựng sâu, nhiều tầng, được tổ chức thành nhiều thê đội. Các lực lượng dự bị chống tăng được thành lập. Việc lập nên các điểm tựa chống tăng, việc nghiên cứu các phương pháp bộ binh cận chiến với xe tăng, tất cả đã có ảnh hưởng quan trọng đến việc chống lại hiệu lực tấn công của xe tăng Đức. Việc vận động đột phá của quân Đức vào những khoảng cách và nơi tiếp giáp và hai bên sườn đã khiến vấn đề bảo đảm nơi tiếp giáp và hai bên sườn là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Một số vấn đề về phương pháp phòng ngự nơi tiếp giáp bắt đầu được áp dụng. Vì lúc này không quân Đức vẫn làm chủ trên không nên Hồng quân từ đại đội đến tiểu đoàn phải tích cực áp dụng những biện pháp phòng không và ngụy trang kín đáo. Tuy nhiên, các phương pháp và cách thức tiến hành chiến tranh của Hồng quân trong giai đoạn mùa thu và mùa đông năm 1941 thì chưa đáp ứng được tình hình. Việc phòng ngự chưa phải nơi nào cũng đủ sức chống cự được hoạt động tập trung xe tăng của Đức. Mật độ chiến thuật còn chưa cao và tung thâm thì không đáng kể. Công sự phòng ngự thường là yếu. Hố cá nhân và hào chưa đảm bảo được đầy đủ đúng mức độ cần thiết, không có hầm cho người và nơi vận động của các phương tiện hỏa lực. Nhưng chính đó lại là những trường học lớn cho các cán bộ chỉ huy Xô-viết sau này.
Mùa xuân năm 1942, Bộ tổng chỉ huy Đức đã đề ra những “chỉ thị đặc biệt về huấn luyện cho bộ binh dựa trên cơ sở kinh nghiệm ở mặt trận phía Đông”, các chỉ thị này đã có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển chiến thuật tấn công và phòng ngự của quân đội phát-xít Đức. Trong các chỉ thị đó đặc biệt chú trọng đến vai trò của hỏa lực trong chiến đấu, từ đó về sau quân Đức mới nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của hỏa lực pháo binh trong chiến đấu với Hồng quân. Trong các bản chỉ thị có các nhận định:
“Trong tấn công và phòng ngự cần thiết phải nhanh chóng tập trung hỏa lực, không phải chỉ của một số loại súng nào đó mà phải đồng thời sử dụng vũ khí bắn thẳng và bắn cầu vồng… Việc tập trung đúng chỗ và đúng lúc các loại vũ khí hiện có (ở hướng chủ yếu) có ảnh hưởng rất nhanh chóng và đắc lực”. Trong chiến đấu tấn công yêu cầu trước hết là phải lập nên “những hướng công kích chính của hỏa lực” bằng cách “trao cho các đại đội các vũ khí nặng để nó sử dụng trong tấn công, đồng thời tập trung việc chỉ huy hỏa lực của tiểu đoàn ở các khu vực quyết định bằng cách sử dụng vũ khí hạng nặng của đơn vị và phối hợp với pháo binh”. Mỗi một người chỉ huy phải “cố sức để tập trung mọi lực lượng công kích, hỏa lực và dự bị ở nơi quan trọng có tính chất quyết định”.
Điều rất quan trọng trong quá trình tấn công là “nhanh chóng điều hỏa lực đúng chỗ và đúng lúc, thường xuyên yểm hộ cho tấn công bằng cách dùng các hình thức mới để tập trung hỏa lực của các loại hỏa khí bắn thẳng và cầu vồng”. Chỉ huy bộ binh có nhiệm vụ phải đảm bảo hỏa lực có hiệu quả trong khi bộ đội vận động tiến công và vận động sát với hỏa lực từng đợt của pháo binh.
Đây là một biến đổi rất quan trọng của quân Đức trong chiến thuật tấn công, trước đây chỉ chủ yếu đề cao vai trò của nhanh chóng cơ động là điểm quan trọng nhất của chiến thuật.
Nhưng những nhận thức đó đã tỏ ra là muộn màng, khi mà phương hướng chiến lược của quân đội phát-xít Đức đã đi theo hướng khác ngay từ đầu: đến chiến dịch tấn công lớn cuối cùng của quân Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, trận Cuốc-xcơ, pháo binh của Đức đã tỏ ra “không lại” được với pháo binh Xô-viết. Trận đánh phản chuẩn bị của các Phương diện quân Xô-viết đã gây cho quân Đức thiệt hại nặng nề cả về pháo binh và xe tăng. Hơn thế nữa, về chiến lược Hít-le vẫn đặt nhiều hy vọng vào các loại xe tăng mới hạng nặng như Con Cọp, Con Báo… mà tự bản thân chúng không thể đem lại được bước ngoặt của chiến tranh.
Chuẩn bị để tiếp đón thích đáng cuộc tấn công của quân Đức, một hệ thống phòng ngự chống tăng nhiều tầng theo chiều sâu, có sự phối hợp chặt chẽ của pháo binh chống tăng bắn thẳng, pháo binh bắn cầu vồng với sự yểm hộ của các binh đoàn xe tăng và pháo tự hành, của những Tập đoàn quân không quân Xô-viết hùng mạnh… đã làm phá sản hoàn toàn chiến thuật “Blitzkrieg” khét tiếng toàn châu Âu của phát-xít Đức.

Không thể không nhắc đôi dòng đến chiến thuật “Blitzkrieg” Nga - Xô-viết. Từ sau trận hội chiến ở Cuốc-xcơ, Hồng quân bước vào giai đoạn tấn công chiến lược. Chiến thuật tấn công của Hồng quân cũng dựa trên vai trò vận động tấn công hết sức quan trọng của các đơn vị xe tăng và cơ giới, nhưng còn kết hợp với bộ binh đổ bộ bằng xe tăng. Quan trọng hơn, là lý luận quân sự binh chủng hợp thành phối hợp chặt chẽ giữa xe tăng bộ binh có sự yểm hộ mạnh mẽ và trực tiếp của pháo binh và không quân. Mật độ pháo binh trên một ki-lô-mét chính diện mặt trận đạt tới 200 khẩu pháo và súng cối! Đến cuối cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại, tốc độ tấn công của các đơn vị xe tăng Xô-viết kết hợp với bộ binh đã đạt được tốc độ 150 ki-lô-mét/ngày.
Ở đây tất nhiên còn có vai trò sức mạnh tổng hợp của quốc gia Xô-viết đã hết sức lớn mạnh xây dựng được một lực lượng quân đội to lớn và hùng mạnh, kết hợp với nhân tố con người, đó là nguồn gốc của chiến thắng.

dangquang1
30-07-2012, 10:12 AM
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CUỘC CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC
VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN LIÊN XÔ
(1941 -1945)
Năm 1941
Ngày 22 tháng Sáu – khoảng 3 giờ sáng phát-xít Đức bội ước tấn công Liên Xô mà không tuyên chiến. Bọn quốc xã tung vào cuộc chiến 4,6 triệu quân, khoảng 190 sư đoàn, hơn 4000 xe tăng, trên 47.000 khẩu pháo và súng cối, khoảng 5000 máy bay và tới 200 tàu chiến. Trên toàn tuyến biên giới phía Tây lúc này quân đội Liên Xô có 2 triệu 680 ngàn quân, 37.500 khẩu pháo và súng cối, 1475 xe tăng loại mới, 1540 máy bay chiến đấu cũng là những kiểu mới chế tạo cuối năm 40 đầu năm 1941 và một số lượng lớn xe tăng và máy bay các kiểu cũ. Ở hầu hết các mặt trận, tại các mũi tấn công quân địch đông hơn lực lượng Hồng quân gấp 3 đến 4 lần, và ngay trong ngày đầu tiên của Chiến tranh, quân đội Xô-viết ở nhiều hướng đã phải rút lui đến 50km. Không quân Hồng quân bị mất đến 1200 chiếc máy bay.
Trong ba tuần đầu tiên của cuộc chiến tranh, quân Đức tiến được 20 đến 30km một ngày trên đất nước Xô-viết. Những lực lượng đầu tiên bước vào chiến đấu chống quân xâm lược là lực lượng Bộ đội biên phòng Xô-viết, trong trận chiến đấu khốc liệt và không cân sức dù không ngăn được bước tiến của quân thù và hầu hết hy sinh hoặc bị bắt làm tù binh nhưng đã gây cho quân Đức nhiều thiệt hại, góp phần làm chậm bước tiến của chúng.
Tổ quốc Xô-viết không bao giờ quên những chiến công anh hùng của các chiến sỹ, sỹ quan của Pháo đài Brest, đã chống trả quân Đức trong suốt mấy tháng trời, trong khi quân Đức đã tiến sâu vào đất nước mà quyết không đầu hàng. Pháo đài đã không đầu hàng.
Pháo đài Brest đã được phong danh hiệu Pháo đài Anh hùng.
Tới giữa tháng Bảy, quân Đức đã chiếm được Lát-via, Lít-va, Tây Ucrai-na, Bê-la-rút-xia. Cuộc chiến đấu bảo vệ thành phố thủ đô nước Cộng hoà Xô-viết Bê-la-rút-xia cũng đã khiến thành phố này trở thành Thành phố Anh hùng.
Đầu tháng Tám quân Đức tiến công theo ba hướng chính. Ở phía Bắc, chúng cố gắng chiếm Lêningrát. Trên hướng trung tâm, chúng tiến thẳng đến tấn công Mát-xcơ-va, thủ đô Xô-viết. Ở hướng Đông Nam, chúng cố gắng thực hiện được kế hoạch của Bộ chỉ huy tối cao Đức: chiến Ucrai-na, bán đảo Cri-mê và tiến vào Cáp-ca-dơ. Trong một thời gian rất ngắn quân Đức đã tiến được từ 400 đến 500 km ở hướng Tây Bắc, 450 đến 600km ở hướng chính tây, và từ 300 đến 350 km ở hướng tây nam.

TRÊN MẶT TRẬN LÊNINGRÁT
Ngày 10 tháng Bảy, quân Đức bắt đầu cuộc tiến công ở mặt trận Lêningrát. Bất chấp sự chống trả quyết liệt của Hồng quân, quân Đức dần dần khép kín vòng vây xung quan thành phố.
Vào cuối tháng Tám, mọi đường xe lửa từ các vùng khác của đất nước tới Lêningrát bị cắt đứt. Mọi liên hệ của thành phố với hậu phương chỉ thông qua hồ La-đô-ga hoặc bằng đường không.
Ngày 8 tháng Chín, mọi liên hệ của Lêningrát với bên ngoài hoàn toàn bị cắt đứt, bắt đầu 900 ngày đêm gian khổ chiến đấu trong vòng vây của quân và dân Lêningrát Anh hùng. Trong tháng Chín, bọn Đức tổ chức đợt tấn công bằng đường không hết sức mãnh liệt vào thành phố, với sự tham gia của 276 chiếc máy bay chiến đấu. Thành phố đã phải chịu đựng 6 trận oanh tạc một ngày.
Ngày 20 tháng Mười một, thành phố vẫn đứng vững. Cuộc bao vây tiếp tục đến tận tháng Giêng năm 1944. Tôn vinh tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân dân thành phố, thành phố Lêningrát đã được tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng.

TRÊN MẶT TRẬN MÁTXCƠVA
Ngày 10 tháng Bảy cũng được đánh dấu bắt đầu cuộc tấn công của phát-xít Đức vào thủ đô Mát-xcơ-va, với sự tham gia của 75% số xe tăng và các lực lượng của quân Đức trên mặt trận phía Đông. Trên đường tới Mát-xcơ-va, là thành phố Xmô-len-xcơ.
Từ ngày 10 tháng Bảy đến ngày 10 tháng Chín đã diễn ra trận chiến đấu trên hướng Xmô-len-xcơ. Chính diện mặt trận trải dài 650km, sâu 250km. Cuộc tấn công của quân Đức vào Mát-xcơ-va kéo dài suốt hai tháng.
Ngày 30 tháng Chín, Bộ chỉ huy Đức quyết định tổ chức chiến dịch “Bão tuyết” nhằm mục tiêu bao vây và tiêu diệt lực lượng Hồng quân ở gần Mát-xcơ-va, chiếm thủ đô và kết thúc chiến tranh trong năm 1941. Hồng quân cùng với nhân dân thành phố đã xây dựng nhiều tuyến phòng thủ xung quan thành phố. Tham gia phòng thủ thành phố còn có 450.000 nhân dân Mát-xcơ-va, trong đó có rất nhiều phụ nữ. Công nhân các nhà máy làm việc ba ca suốt ngày đêm để sản xuất vũ khí đạn dược cho cuộc phòng thủ thành phố, chặn đứng bước tiến quân thù. Cho đến cuối tháng Mười, trên hướng Mát-xcơ-va quân Đức đã tiến được từ 230 đến 250km.
Ngày 7 tháng Mười một, cuộc duyệt binh truyền thống của quân đội Xô-viết vẫn được tổ chức trên quảng trường Đỏ. Xta-lin vẫn đến dự duyệt binh, gây nên một niềm xúc động vô bờ và niềm tin lớn lao ở chiến thắng trong lòng người dân Xô-viết. Các đơn vị tham gia duyệt binh đi thẳng ra mặt trận phòng thủ Mát-xcơ-va.

Ngày 16 tháng Mười một, toàn đất nước được biết về chiến công anh hùng của 28 thành viên trong Sư đoàn của Tướng I.V. Pan-phi-lốp, những người đã giữ vững trận địa trong bốn giờ chống lại một lực lượng lớn xe tăng của Đức. Tất cả 28 người đều hy sinh. Câu nói nổi tiếng trong trận chiến đấu của Chính trị viên Klô-chcốp: “chúng ta sẽ không rút lui vì sau lưng là Mát-xcơ-va!”.
Cuối tháng Mười một, đầu tháng Mười hai, ranh giới chiến tuyến phía Tây Mát-xcơ-va đã đến giới hạn. Phía Bắc quân Đức cắt đứt kênh đào Mát-xcơ-va – Vôn-ga và chỉ còn cách Mát-xcơ-va 30km. Về phía Nam, cuộc chiến đấu đã diễn ra ác liệt tại thành phố Tu-la. Để tôn vinh những chiến công của Hồng quân và nhân dân thành phố trong cuộc chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va, thành phố Tu-la đã được tặng danh hiệu thành phố Anh hùng.
Đến ngày 25 tháng Mười hai, hai mũi gọng kìm đe doạ thành phố Mát-xcơ-va từ phía Bắc và phía Nam dần được nới lỏng. Cuộc chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va còn kéo dài đến tháng Tư năm 1942. Hơn 3 triệu người, tới 3000 xe tăng, trên 2000 máy bay và hơn 22.000 khẩu pháo và súng cối của cả hai bên tham gia vào trận chiến đấu này.
Mát-xcơ-va cũng được phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng.
Ngày 22 tháng Mười hai, một cuộc tập kích đường không tổng lực (122 lần) của không quân Đức với sự huy động trên 8000 lượt máy bay chiến đấu vào Mát-xcơ-va bị bẻ gẫy. Chỉ có 229 chiếc có thể lọt được vào bầu trời thành phố trong số đó!








TRÊN MẶT TRẬN ĐÔNG NAM
Ngày 19 tháng Chín, sau một tháng rưỡi chiến đấu ngoan cường, Hồng quân phải bỏ Ki-ép, thủ đô nước Cộng hoà Xô-viết Ucrai-na. Do những chiến công anh dũng trong bảo vệ thành phố của Hồng quân và nhân dân, thành phố Ki-ép cũng đã được phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng.

Từ ngày 5 tháng Tám đến ngày 16 tháng Mười, đã diễn ra cuộc chiến đấu bảo vệ Ô-đét-xa, ngay cả khi chiến tuyến đã bỏ thành phố xa lại phía sau. Vì cuộc chiến đấu này, thành phố cũng đã được phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng. Ngày 16 tháng Mười, Hồng quân phải bỏ Ô-đét-xa.

Trung tuần tháng Mười một, quân Đức đã chiếm phần lớn bán đảo Cri-mê. Chỉ còn Xê-vát-xtô-pôn là còn nằm trong tay Hồng quân. Cuộc chiến đấu bảo vệ thành phố đã kéo dài trong 8 tháng, đến ngày 4 tháng Bảy năm 1942, Hồng quân buộc phải bỏ thành phố. Xê-vát-xtô-pôn cũng được tặng danh hiệu thành phố Anh hùng.
Trong tháng Mười một, quân Đức chỉ mất vài ngày để chiếm thành phố Rô-xtốp trên sông Đông, mà theo chúng đó là “chìa khoá” vào Bắc Cáp-ca-dơ.

Như vậy cho đến hết năm 1941, hơn 1,5 triệu km vuông đất nước Xô-viết đã nằm trong tay kẻ thù, trên đó có tới 74,5 triệu nhân dân sinh sống trước chiến tranh. Nhưng trong vùng bị chiếm đóng đã có trên 2000 đội du kích được thành lập. Đến cuối năm 1941, chiến tranh diễn ra trên một mặt trận kéo dài trên 1000 km. Các lực lượng vũ trang Xô-viết mất 5,3 triệu người hy sinh, bị bắt hoặc mất tích. Riêng số tù binh Xô-viết bị quân Đức bắt lên tới 2 triệu người.

Sơ lược lịch sử (năm 1942)


SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CUỘC CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC
VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN LIÊN XÔ
(1941 -1945)
Năm 1942
Trong năm 1942, mặt trận Xô - Đức trải dài trên 6200 km, vào tháng Tám lực lượng quân Đức tập trung trên mặt trận này đạt được con số lớn nhất trong lịch sử cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai.
TRÊN MẶT TRẬN LÊNINGRÁT
Trong suốt cả năm, Hồng quân luôn luôn cố gắng chọc thủng vòng vây quanh thành phố Lêningrát. Nhưng mọi nỗ lực đều thất bại. Vòng vây này chỉ bị chọc thủng vào tháng Giêng năm 1944.

TRÊN MẶT TRẬN MÁTXCƠVA
Từ ngày 8 tháng Giêng tới hết tháng Tư, quân đội Xô-viết vẫn tiếp tục chiến đấu ngay sát nách Mát-xcơ-va, kiên cường bảo vệ thành phố. Xung quan Mát-xcơ-va, quân Đức bị đẩy lùi từ 80 đến 250km, giải phóng vùng lân cận Mát-xcơ-va, Tu-la và nhiều khu vực vùng Ca-li-nin và Xmô-len-xcơ. Từ đầu chiến tranh tới hết tháng Ba năm 1942, 1600 quả bom tấn và khoảng 100 quả bom cháy được ném vào Mát-xcơ-va, hơn 1200 người dân Mát-xcơ-va bị chết, khoảng 5.400 người bị thương. Cùng với danh hiệu thành phố Anh hùng của Mát-xcơ-va, có trên 36.000 chiến sỹ và cán bộ chỉ huy Hồng quân được tặng thưởng huân huy chương, 110 người được tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết. Trên 1 triệu cán bộ chiến sỹ được tặng Huy chương “Bảo vệ Mát-xcơ-va”.

TRÊN MẶT TRẬN PHÍA NAM
Từ đầu năm đến 8 tháng Năm, quân Đức cố gắng “hất” Hồng quân khỏi bán đảo Cri-mê. Sau khi chiến đấu kiên cường và gây cho quân Đức nhiều tổn thất, Hồng quân phải bỏ Kéc-sơ và Phê-đô-xi-a. Nhưng cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục ở Xê-vát-xtô-pôn và các mỏ đá gần Kéc-sơ.
Từ giữa tháng Năm tới hết tháng Mười, có trên 10.000 chiến sỹ Hồng quân chiến đấu bảo vệ các mỏ đá ở gần Kéc-sơ. Với những chiến công này, thành phố Kéc-sơ đã được phong Thành phố Anh hùng. Ngày 30 tháng Sáu, các đơn vị Hồng quân rút khỏi Xê-vát-xtô-pôn, cuộc chiến đấu bảo vệ thành phố đã kéo dài trong 250 ngày. Cùng với danh hiệu Thành phố Anh hùng, hơn 39.000 người đã được tặng thưởng Huy chương “Bảo vệ Xê-vát-xtô-pôn”.
Từ 12 đến 29 tháng Năm, những cố gắng của Hồng quân nhằm chiếm lại thành phố Khác-cốp đã thất bại. Ngày 28 tháng Bảy, quân Đức tấn công theo hai hướng chính: Xta-lin-grát (nằm trên sông Vôn-ga, nguồn nước chính của phần Châu Âu của đất nước), và tới “Túi dầu lửa” Cáp-ca-dơ.

TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG VÔN-GA – XTALINGRÁT
Trận Xta-lin-grát bắt đầu ngày 17 tháng Bảy trên một chiến trường 100 ngàn ki-lô-mét vuông trong 200 ngày. Có đến 2 triệu binh sỹ cả hai bên tham gia vào trận chiến vĩ đại này.
Đầu tháng Tám, quân Đức xông tới Xta-lin-grát, 60 đến 70 km ỏ phía Bắc và 20 đến 30 km ở phía Nam thành phố.
Ngày 23 tháng Tám, quân Đức chọc được tới sông Vôn-ga ở một điểm trong tất cả các khu vực phòng ngự. Có tới 2000 đợt tấn công lớn nhỏ vào thành phố suốt ngày đêm, hơn 40.000 người chết, 150.000 người bị thương.
Cuối tháng Tám, đầu tháng Chín, quân Đức đã tiến được vào ngoại ô thành phố. Thành phố chỉ còn cách quân Đức từ 2 đến 10 km.
Trong tháng Chín, những trận chiến đấu đã bắt đầu trên đường phố Xta-lin-grát.
Ngày 26 tháng Chín, quân Đức trong thành phố đã đến được sông Vôn-ga ở một số điểm trong thành phố.
Ngày 27 tháng Chín, ba chiến sỹ Hồng quân dưới sự chỉ huy của Thượng sỹ Y.Ph. Páp-lốp đã chiến đấu ngoan cường trong một ngôi nhà bị quân Đức vây chặt, ngôi nhà còn lại sau những trận bom dữ dội của phát-xít Đức, trong suốt 3 ngày. Sau đó, cuộc chiến đấu bảo vệ ngôi nhà được tiếp tục với 25 chiến sỹ trong suốt 58 ngày, cho đến tận ngày phản công của Hồng quân.
Giữa tháng Mười một, quân Đức chiếm được nhiều điểm trong thành phố, tới được sông Vôn-ga ở hai điểm những thất bại trong việc sang bờ bên kia.
Ngày 11 tháng Mười một, Bộ chỉ huy Đức tiến hành những nỗ lực cuối cùng để chiếm Thành phố.
Ngày 19 tháng Mười một đến ngày 2 tháng Hai năm sau được đánh dấu là cuộc phản công, bao vây và tiêu diệt đạo quân Đức ở Xta-lin-grát.
Trận đánh đã tiêu diệt 1,5 triệu quân Đức, 600.000 bị bắt làm tù binh, một số lượng rất lớn vũ khí, khí tài bị rơi vào tay quân đội Xô-viết.
Cùng với thắng lợi này, cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại bước sang một giai đoạn mới.

TRẬN ĐÁNH BẢO VỆ CÁP-CA-DƠ
Trận đánh phòng ngự Cáp-ca-dơ kéo dài từ cuối tháng Bảy cho đến hết năm 1942. Đường đến Cáp-ca-dơ của quân Đức là phải đi xuyên qua vùng núi Cáp-ca-dơ và dọc theo bờ biển Đen. Trên cả hai hướng, quân Đức đều bị chặn đứng.
Ngày 9 tháng Chín, sau một trận chiến đấu ngoan cường suốt ba ngày, Hồng quân đã phải rút khỏi phần lớn thành phố Nô-vô-rô-xít-xcơ nằm trên bờ phía Cáp-ca-dơ của biển Đen. Ở phần phía đông thành phố Hồng quân vẫn phòng thủ cho đến tân khi thành phố được hoàn toàn giải phóng vào tháng Chín năm 1943. Thành phố cũng được phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng.


















Sơ lược lịch sử (năm 1943)


SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CUỘC CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC
VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN LIÊN XÔ
(1941 -1945)
Năm 1943
TRÊN MẶT TRẬN LÊNINGRÁT
Cuối tháng Giêng, Hồng quân khôi phục được con đường nối Lêningrát với hậu phương lớn. Từ đó một “con đường sống” được thiết lập trên hồ La-đô-ga. Mùa đông, ôtô chở hàng tiếp tế chạy trên mặt hồ đóng băng, còn mùa hè thì dùng tàu để chở. Một hành lang rộng từ 8 đến 10 km được thiết lập bởi bộ đội Xô-viết, duy trì mối liên hệ của thành phố với bên ngoài. Bởi lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng tập thể cao cả trong việc duy trì “con đường sống” và bảo vệ Thành phố, 22.000 chiến sỹ được tặng thưởng huân, huy chương các loại, 25 người được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Bang Xô-viết.
TRÊN MẶT TRẬN MÁTXCƠVA - HƯỚNG TÂY
Đầu tháng Tám, tuyến mặt trận phía trước Mát-xcơ-va đã bị đẩy lùi từ 250 đến 300 km khỏi thành phố. Từ ngày 7 tháng Tám tới 2 tháng Mười, trong chiến dịch Xmô-len-xcơ, Hồng quân đã tiến được từ 200 đến 300km về phía tây.
Ngày 25 tháng Chín, Hồng quân đã giải phóng Xmô-len-xcơ. Hơn 135.000 người dân thường và tù binh Xô-viết đã bị giết trong các trại tập trung ở đây. Hơn 87.000 người bị lùa sang Đức để lao động khổ sai. Tất cả các xí nghiệp công nghiệp đều bị phá huỷ. Đầu tháng Mười, Hồng quân đã tiến vào Đông Bê-la-rút-xi-a.
Ngày 25 tháng Mười, quân đội Xô-viết đã giải phóng Gô-men, một vùng ở trung tâm Bê-la-rút-xi-a. Khoảng 100.000 dân thường và tù binh Liên Xô bị giết trong thời gian phát-xít Đức chiếm đóng nơi đây.

TRÊN MẶT TRẬN PHÍA NAM
Từ tháng Mười một năm 1942 đến đầu tháng Ba năm 1943, quân đội Xô-viết đã tiến được từ 600 đến 700 km về phía tây, giải phóng một vùng rộng lớn hơn 480.000 km vuông.
Ngày 4 tháng Hai Hồng quân đã giải phóng phần lớn Cáp-ca-dơ.
Đầu tháng Mười, trận đánh giải phóng Cáp-ca-dơ kết thúc bằng việc giải phóng Nô-vô-rô-xít-xcơ. Các lực lượng Xô-viết đã đuổi được quân thù khỏi một diện tích đất nước hơn 200.000 km vuông. Khoảng 600.000 cán bộ chiến sỹ được tặng thưởng Huy chương “Bảo vệ Cáp-ca-dơ”.
Trong tháng Giêng quân đội Xô-viết tiến đến cụm quân Đức ở Vô-rô-ne-giơ.
Trong tháng Hai, Hồng quân đuổi được phát-xít Đức khỏi Cuốc-xcơ. Ở đây, trong thời gian tạm chiếm 3.000 người bị bắn, 10.000 người bị chết vì bệnh dịch và đói khát và 10.000 người bị đưa sang Đức lao động khổ sai (theo các báo cáo chính thức).
Ngày 9 tháng Hai, Hồng quân giải phóng Ben-gô-rốt.
Ngày 14 tháng Hai, Hồng quân giải phóng Rốt-xtốp trên sông Đông. Ở đây bọ Quốc xã đã giết 40.000 người, 53.000 người khác bị đưa sang Đức. Tất cả các cơ sở công nghiệp bị phá huỷ.
Trong tháng Ba, một đợt phản công của quân đội Đức được tiến hành đẩy Hồng quân khỏi một số vùng vừa giải phóng tại Đôn-bát, các thành phố Khác-cốp và Ben-gô-rốt. Quân đội Xô-viết phải lút lui từ 100 đến 150 km.





TRẬN CHIẾN TRÊN VÒNG CUNG CUỐC-XCƠ
Trận chiến ở Cuốc-xcơ đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới, kéo dài từ 5 tháng Bảy đến ngày 24 tháng Tám. Cả hai bên đưa vào tham chiến hơn 4 triệu người, hơn 69.000 khẩu pháo và súng cối, hơn 13.000 xe tăng và pháo tự hành, khoảng 12.000 máy bay chiến đấu.
Ngày 12 tháng Bảy, trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai đã diễn ra gần làng Prô-khô-rốp-ca. Trận này có thời 1.200 chiếc xe tăng và pháo tự hành của cả hai bên tham chiến. Trong trận đánh, quân Đức mất 10.000 quân và tới 400 xe tăng. Kết quả là, quân Đức thất bại trong mũi tấn công vào phía Nam vòng cung Cuốc-xcơ.
Trong hai tháng Bảy-Tám, quân đội Xô-viết tiến hành phản công từ Cuốc-xcơ trên hai hướng: phía Bắc tới tới thành phố Ô-ren và hướng Nam, tới Ben-gô-rốt và Khác-cốp. Trong trận chiến này, Thượng uý Alếc-xây P. Ma-rết-xiép, người đã cụt cả hai chân từ đầu chiến tranh, sau một thời gian gian khổ để quay lại với không quân tiêm kích đã tham gia chiến đấu và lập chiến công: bắn rơi ba máy bay địch. Anh đã được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết.
Ngày 5 tháng Tám, Hồng quân chiếm Ô-ren và Ben-gô-rốt. Hơn 11.000 người bị bon phát-xít giết ở Ô-ren và hơn 20.000 người bị đưa sang Đức.
Ngày 24 tháng Tám, quân đội Xô-viết giải phóng Khác-cốp. Theo những thông tin ban đầu, khoảng 300.000 thường dân và tù binh bị giết trong thành phố và vùng phụ cận, khoảng 160.000 người bị đưa sang Đức. Mát-xcơ-va bắn pháo hoa chào mừng Thành phố Khác-cốp được giải phóng.
Hơn 100.000 tướng lĩnh, cán bộ chỉ huy và chiến sỹ Xô-viết được tặng thưởng các huân huy chương vì lòng dũng cảm trong trận chiến đấu trên vòng cung Cuốc-xcơ. 180 người được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang.

TRÊN MẶT TRẬN UCRAI-NA
Nửa cuối tháng Chín, Hồng quân giải phóng Đôn-bát – trái tim than đá của vùng đất nước thuộc châu Âu của Liên Xô. Hơn 167.000 người dân đã bị bọn phát-xít bị giết ở thủ đô vùng Đôn-bát - thành phố Xta-li-nô.
Trong tháng Chín, quân đội Xô-viết giải phóng phần lớn phía đông Ucrai-na và tiến tới tả ngạn sông Đniépr.
Ngày 6 tháng Mười một, Hồng quân giải phóng thủ đô Ucrai-na, thành phố Ki-ép. Hơn 195.000 công dân Xô-viết bị xử tử tại thành phố trong thời gian chiếm đóng. Hơn 100.000 người bị đưa sang Đức.
Ngày 22 tháng Mười hai, trận chiến đấu trên sông Đniépr kết thúc. Hồng quân tiến sang hữu ngạn sông Đniépr, thiết lập các bàn đạp trên hữu ngạn.



















Sơ lược lịch sử (năm 1944)


SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CUỘC CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC
VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN LIÊN XÔ
(1941 -1945)
Năm 1944
GIẢI PHÓNG CỘNG HOÀ XÔ VIẾT LIÊN BANG NGA
Trong ngày 20 tháng Giêng, Hồng quân giải phóng Nốp-gô-rốt. 201.000 dân thường và tù binh bị giết ở thành phố trong thời gian tạm chiếm. Trong thời gian này, chỉ còn lại 30 người dân của Nốp-gô-rốt còn sống sót ở lại trong thành phố!
Ngày 27 tháng Giêng, vòng vây xung quanh thành phố Lêningrát bị phá vỡ. Mát-xcơ-va bắn pháo hoa chào mừng sự kiện cảm động này. Bởi tinh thần và hành động Anh hùng trong cuộc phòng thủ thành phố, Thành phố Lênin đã được phong tặng danh hiệu Thành phố Anh hùng. Hơn 640.000 người dân thành phố bị chết vì đói, hàng chục ngàn người bị suy kiệt và chết khi sơ tán. 17.000 người Lêningrát bị chết, khoảng 34.000 người bị thương trong các trận pháo kích và ném bom oanh tạc của phát-xít.
Ngày 23 tháng Bảy, phát-xít Đức bị đuổi khỏi Pơ-xcốp. Hơn 290.000 người dân thành phố và tù binh bị bọn phát-xít giết hại. Hơn 11.000 người bị dồn sang Đức.
Ngày 28 tháng Bảy thành phố Brest được giải phóng. 84.000 người dân thành phố bị giết trong thời kỳ bọn phát-xít chiếm đóng.
Cho tới giữa mùa hè quân đội Xô-viết đã giải phóng tất cả lãnh thổ Cộng hoà Xô-viết Liên bang Nga. 1,8 triệu người đã bị xử tử công khai, 1,3 triệu người bị dồn sang Đức. Hàng trăm thành phố bị phá huỷ, khoảng 3 triệu công trình xây dựng bị biến thành đống đổ nát đẩy 11 triệu dân vào tình trạng bị mất nhà ở.

TRÊN MẶT TRẬN UCRAI-NA
Trong các tháng Giêng và Hai, quân Đức phải chịu những cuộc phản công mãnh liệt của quân đội Xô-viết tại Ucrai-na. Quân thù phải lùi từ 80 đến 350 km kể từ sông Đniépr.
Ngày 10 tháng Tư thành phố cảng Ô-đét-xa được giải phóng. 82.000 người Ô-đét-xa bị giết, 72.000 người bị đưa sang Đức.
Cuộc chiến đấu giải phóng Crimê tiếp tục từ ngày 8 đến 13 tháng Tư năm 1944.
Ngày 11 tháng Tư, Hồng quân giải phóng Kéc-sơ.
Ngày 9 tháng Năm, Xê-vát-xtô-pôn được giải phóng. Ở đây, trong thời gian thành phố bị chiếm đóng, bọn Quốc xã đã giết 27.000 người, 42.000 người bị bắt đưa sang Đức. Khi thành phố được giải phóng, chỉ còn lại 3000 người dân từ trước chiến tranh!. Hầu hết thành phố bi tàn phá thành đống đổ nát.
Hết tháng Tám, cuộc chiến đấu giải phóng toàn bộ lãnh thổ Ucrai-na kết thúc. Hơn 123.000 binh lính và sỹ quan được tặng thưởng Huân chương và Huy chương, 160 người được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang.
Hơn 5 triệu người Ucrai-na (trên 3,8 triệu thường dân và 1,5 triệu tù binh Xô-viết) bị bon phát-xít giết hại, 2,4 triệu người bị dồn sang Đức.

GIẢI PHÓNG NƯỚC CỘNG HOÀ MÔN-ĐA-VI XÔ-VIẾT
Cuối tháng Tám, quân đội Xô-viết cũng kết thúc trận chiến đấu giải phóng nước Cộng hoà Môn-đa-vi Xô-viết, đuổi quân phát-xít Đức khỏi thủ đô Ki-si-nhốp. 64.000 người Môn-đa-vi-a bị giết, 47.000 người bị bắt đưa sang Đức, 207.000 người phải chịu những trận tra tấn dã man của phát-xít Đức.

TRÊN MẶT TRẬN BÊ-LA-RÚT-XI-A
Ngày 22 tháng Sáu, đúng ba năm kỷ niệm bắt đầu cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại, chiến dịch giải phóng Bê-la-rút-xi-a mang tên “Ba-gra-chi-ôn” được bắt đầu, với sự tham gia của các Phương diện quân: Bê-la-rút-xi-a 1, Bê-la-rút-xi-a 2, Phương diện quân Pri-ban-tích 1, nhằm giải phóng toàn bộ đất đai Bê-la-rút-xi-a.
Ngày 26 tháng 6, thành phố Vi-tép-xcơ của nước Cộng hoà Xô-viết Bê-la-rút-xi-a được giải phóng. Khoảng 140.000 dân thường và tù binh Xô-viết bị giết hại tại đây trong thời gian tạm chiếm, thành phố bị tàn phá nặng nề.
Ngày 3 tháng Bảy, Thủ đô nước Cộng hoà Xô-viết Bê-la-rút-xi-a, thành phố Min-xcơ được giải phóng. Trong thời gian tạm chiếm, ở đây bon phát-xít Đức đã giết hại hơn 400.000 người dân thường và tù binh Xô-viết.
Chiến dịch “Ba-gra-chi-ôn” kéo dài từ 22 tháng Sáu đến ngày 29 tháng Tám, trên một chính diện mặt trận dài trên 1.100km và sâu 600km. Đất nước Bê-la-rút-xi-a hoàn toàn được giải phóng. Hơn 2,2 triệu người (Hơn 1,4 triệu dân thường và hơn 800.000 tù binh) bị giết trên đất nước Bê-la-rút-xi-a trong thời gian chiếm đóng của bon phát-xít, 380.000 người bị đưa sang Đức. 209 thành phố và các điểm dân cư bị biến thành đống gạch vụn, 9.200 làng mạc bị đốt cháy, đẩy khoảng 34.000 người dân vào tình trạng không có nhà ở.

GIẢI PHÓNG CÁC NƯỚC CỘNG HOÀ VÙNG BAN-TÍCH
Ngày 13 tháng Bảy, quân đội Xô-viết giải phóng thủ đô nước Cộng hoà Xô-viết Lít-va, thành phố Vi-nhi-út. Ở đây, hơn 100.000 thường dân và tù binh đã bị bọn phát-xít xử bắn trong thời gian tạm chiếm.
Ngày 13 tháng Mười, Hồng quân hoàn thành trận chiến đấu giải phóng thủ đô nước Cộng hoà Xô-viết Lát-vi-a, thành phố Ri-ga. Tại Ri-ga trong thời gian tạm chiếm bọn phát-xít đã giết hại hơn 300.000 thường dân và tù binh, hơn 75.000 người bị đưa sang Đức.
Ngày 22 tháng Mười, gần như tất cả đất đai Lát-vi-a sạch bóng quân thù.
Ngày 22 tháng Chín, Hồng quân giải phóng thủ đô nước Cộng hoà Xô-viết Ét-xtô-ni-a, thành phố Tallinn. Ở đây, hơn 125.000 thường dân và tù binh đã bị bọn phát-xít giết hại trong thời gian tạm chiếm.
Ngày 24 tháng Mười một, quân đội Xô-viết hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu giải phóng toàn bộ lãnh thổ các nước Cộng hoà vùng Ban-tích.

GIẢI PHÓNG CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU:
RU-MA-NI
Ngày 26 tháng Ba, quân đội Xô-viết đã tiến sát biên giới Liên Xô – Ru-ma-ni.
Ngày 31 tháng Tám, Hồng quân đã tiến tới Bu-ca-rest, thủ đô Ru-ma-ni.
Trong tháng Mười toàn bộ đất đai Ru-ma-ni được giải phóng.

NAM-TƯ
Ngày 6 tháng Chín, quân đội Xô-viết đã tiến sát biên giới Ru-ma-ni – Nam-Tư.
Ngày 20 tháng Mười, Hồng quân cùng với các chiến sỹ Quân giải phóng Nam-Tư đã giải phóng thủ đô Ben-grát. Hơn 2.000 cán bộ chiến sỹ Hồng quân được tặng thưởng các huân chương, huy chương của Nhà nước Nam-Tư, 12 người được phong danh hiệu Anh hùng Liên bang Nam-Tư.
Cũng ngày 20 tháng Mười, Hồng quân và Quân giải phóng Nam-Tư đã giải phóng đất Séc-bi.

HUNG-GA-RY
Ngày 22 tháng Chín, Hồng quân tiến tới biên giới Ru-ma-ni – Hung-ga-ri.
Từ ngày 6 tháng Mười tới 28 tháng Mười, một phần ba đất đai Hung-ga-ri, vùng đất định cư của khoảng một phần tư dân cư Hung-ga-ri được giải phóng trong chiến dịch Đê-brê-xen.
Từ ngày 29 tháng Mười đến ngày 9 tháng Mười hai, Hồng quân cùng với những chiến sỹ giải phóng tình nguyện Hung-ga-ri tiến hành chiến dịch giải phóng thành phố Bu-đa-pest.
Trận chiến đấu trên đường phố Bu-đa-pest bắt đầu ngày 31 tháng Mười hai.

BA-LAN
Ngày 20 tháng Bảy, quân đội Xô-viết tiến vào đất Ba-lan.
Tới giữa tháng Chín, Hồng quân đã tiến đến hữu ngạn sông Vít-xtuyn (Vixla) và ngoại ô Vác-sa-va.

BUN-GA-RI
Ngày 8 tháng Chín, quân đội Xô-viết tiến vào đất Bun-ga-ri.
Ngày 15 tháng Chín, quân đội Xô-viết cùng với Chính phủ lâm thời Bun-ga-ri của Ghê-oóc-ghi Đi-mi-trốp đã vào Xô-phi-a.

TIỆP-KHẮC
Ngày 6 tháng Mười quân đội Xô-viết với các lực lượng của Tập đoàn quân Tiệp-Khắc thứ nhất (Tướng Lút-vích Xvô-bô-đa) đã tiến vào đất nước Tiệp-Khắc.
Ngày 28 tháng Mười, Hồng quân đã giải phóng một phần của Đông Xlô-va-kia.










Sơ lược lịch sử (năm 1945)


SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CUỘC CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC
VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN LIÊN XÔ
(1941 -1945)
Năm 1945
Đầu năm 1945, lực lượng về người, phương tiện kỹ thuật và vũ khí của quân đội Xô-viết đạt tới đỉnh cao trong tất cả những năm chiến tranh. Trên mặt trận Xô - Đức, Hồng quân có 6,7 triệu sỹ quan và chiến sỹ, 107.300 khẩu pháo và súng cối, 12.100 xe tăng và pháo tự hành, khoảng 14.700 máy bay chiến đấu.
Từ giữa tháng Giêng, Hồng quân bắt đầu một cuộc tấn công vĩ đại từ bờ biển Ban-tích tới sông Đa-nuýp.

CHIẾN DỊCH VI-XLA – Ô-ĐE
Từ đầu năm 1945, một trận tuyến phòng ngự mạnh và dày đặc được thiết lập giữa hai con sông: từ sông Vi-xla đến sông Ô-đe, theo lệnh của chính Hít-le, gồm đến bảy tuyến phòng ngự chính, trong số đó có vô số tuyến phòng ngự bộ phận và hoả điểm mạnh. Trên tuyến phòng ngự Vác-xa-va – Iát-xlô được chiếm giữ bởi Cụm Tập đoàn quân A có tới 560.000 lính và sỹ quan Đức, khoảng 5.000 khẩu pháo và súng cối, 1.220 xe tăng và pháo tự hành. Cụm Tập đoàn quân này được sự yểm hộ của 630 máy bay chiến đấu. Nhiệm vụ đặt ra cho Hồng quân là tức khắc trong hành tiến, bằng các lực lượng xe tăng lớn, thọc sâu, chia cắt cụm Tập đoàn quân A của Đức, tiến đến sông Ô-đe và nhiệm vụ tiêu diệt số quân địch còn lại sẽ được hoàn tất bởi bộ binh. Các đơn vị sẽ phải chọc thủng các tuyến phòng ngự trước khi các lực lượng địch có thể chiếm giữ chúng. Đó là nội dung chính của Chiến dịch Vi-xla - Ô-đe.
Chiến dịch bắt đầu vào sáng ngày 12 tháng Giêng. Một số chiến dịch nhỏ, bộ phận được tiến hành chậm hơn, từ ngày 20 tháng Giêng hoặc muộn hơn. Nhưng ngày tiến hành chiến dịch đã được thay đổi vì ngày 16 tháng Mười hai năm 1944 Bộ chỉ huy Đức bất ngờ ra lệnh phản công mãnh liệt vào liên quân Anh - Mỹ tại Ác-đen, gây nhiều khó khăn cho Đồng Minh. Nghĩa vụ đồng minh chống phát-xít đã khiến Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô-viết phải quyết định: Thủ tướng Anh, Uyn-xtơn Sớc-sin (Winston Churchill) đã phải “cầu cứu” Lãnh tụ Xô-viết Y. Xta-lin giúp đỡ. Và thế là các lực lượng Xô-viết tấn công mãnh liệt vào quân Đức gây nên những thiệt hại nặng nề. Để tránh khỏi bị tiêu diệt, quân Đức bắt đầu rút lui từng bộ phận lớn.
Ngày 16 tháng Giêng, quân đội Xô-viết đã đẩy lùi quân Đức trên một chính diện mặt trận tới 250km. Hồng quân chỉ mất 6 ngày tiến được 150 km và vượt sông Vác-ta trong hành tiến.
Ngày 17 tháng Giêng, Hồng quân giải phóng các thành phố Ra-đôm-xcô và Xơ-dét-tô-sô-oa. Đơn vị đầu tiên tiến vào thành phố Xơ-dét-tô-sô-oa là tiểu đoàn xe tăng dưới sự chỉ huy cuả Thiếu tá Khô-khri-a-cốp, người sau đó được phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô do sự chỉ huy tài tình và hành động dũng cảm.
Ngày 17 tháng Giêng, quân đội Xô-viết giải phóng thủ đô Vác-sa-va, dù có lệnh của Hít-le phải “tử thủ” trong thành phố bằng mọi giá. Để đánh dấu sự kiện lịch sử này, Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô đã đặt ra Huy chương “Giải phóng Vác-sa-va” để tặng thưởng cho hơn 682.000 cán bộ chỉ huy và chiến sỹ Hồng quân Liên Xô và Ba-lan.
Ngày 18 tháng Giêng, bộ đội Phương diện quân Ucrai-na 1 và Phương diện quân Bê-la-rút-xia 1 đã gặp nhau tại Szydlowiec. Điều này cho phép Hồng quân có thể tấn công dọc theo một trận tuyến trên 500 km để bẻ gẫy trận tuyến phòng ngự của quân Đức trên sông Vi-xla. Cụm Tập đoàn quân A của Đức đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Quân đội Xô-viết tiến nhanh như vũ bão đến biên giới nước Đức.
Ngày 19 tháng Giêng, những đơn vị Xô-viết đầu tiên tiến vào đất Đức.
Đến hết tháng Giêng, quân đội Xô-viết đã tiến được tới sông Ô-đe, vượt sông trong hành tiến và chiếm được các bàn đạp bên kia sông tại bắc và nam Cút-xtrin. Các chiến sỹ xe tăng của Lữ đoàn xe tăng cận vệ 44 - đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 11 đã nổi lên vì những chiến công dũng mãnh vô song. Lữ đoàn lọt vào sau các đơn vị Đức đang rút lui và bị tách khỏi lực lượng chính của Tập đoàn quân, nhưng không chờ Tập đoàn quân tiến đến nơi, các chiến sỹ xe tăng tiến đến Cứ điểm Mezeritz, xuyên thủng tuyến phòng ngự của địch, tấn công táo bạo vào sau đội hình phòng ngự của quân Đức và chiếm được một bàn đạp trên bờ tây sông Ô-đe. Để tôn vinh chiến công này, bảy chiến sỹ và sỹ quan của Lữ đoàn được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, riêng tư lệnh Lữ đoàn Đại tá I. Gu-sa-cốp-xki được tặng thưởng ngôi Sao vàng Anh hùng Liên bang lần thứ hai.
Như vậy trong vòng có 23 ngày, tuyến phòng ngự sâu 500km từ sông Vi-xla đến sông Ô-đe của phát-xít Đức bị đập nát. Chiến dịch Vi-xla - Ô-đe có một ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Quân đội Xô-viết cùng với lực lượng của Tập đoàn quân Ba-lan thứ nhất và các chiến sỹ du kích tình nguyện Ba-lan đã giải phóng phần lớn đất nước Ba-lan. Chiến tranh chuyển sang diễn ra trên lãnh thổ nước Đức, và ở nơi gần nhất Hồng quân chỉ còn cách Béc-lin có 60km. Quân Đức bị mất đến 35 sư đoàn, 25 sư đoàn khác bị mất từ 50 đến 70% quân số. Để chống trả lại cuộc tấn công mãnh liệt của quân đội Xô-viết, Hít-le đã phải điều động 29 sư đoàn và 4 lữ đoàn trong lực lượng đang chống đỡ tấn công của quân Đồng minh ở mặt trận phía Tây về mặt trận phía Đông. Chính điều này đã giúp cho quân đội Anh - Mỹ bớt khó khăn ở Ác-đen.
Các nhà sử học phương Tây sau này cố gắng đề cao ý nghĩa của trận Ác-đen như là một chiến thắng quyết định số phận cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, rằng trận đó là quân Đồng minh “ứng cứu” cho Hồng quân chứ không phải ngược lại. Nhưng hình như họ đã quên lời cầu cứu của Sớc-sin…
“Bộ tổng chỉ huy quân các nước Đồng minh vô cùng lo lắng về những hành động tiếp sau của quân địch tại Ác-đen. U. Sớc-sin ngày 6-1-1945 gửi cho I.V. Xta-lin bức thư riêng nói về nỗi lo lắng ấy. Ông ta thông báo, ở phía Tây đang diễn ra những trận đánh nặng nề, và quân Đồng minh bị mất quyền chủ động, đang lâm vào tình thế đáng lo ngại.
Sớc-sin và Ai-xen-hao đặt hy vọng lớn vào việc Liên Xô sẽ có phản ứng nhanh sau khi nhận được thông báo, nên đã cử thống chế không quân Tê-đe đi Mát-xcơ-va mang theo bức thư đó. Nếu chính phủ Liên Xô nhận lời và cho bộ đội Liên Xô chuyển thật nhanh sang tiến công (điều mà U. Sớc-sin và Đ. Ai-xen-hao đang trông đợi), thì Hít-le sẽ buộc phải rút những đơn vị xung kích của chúng từ mặt trận phía tây ném sang phía đông.
Như mọi người đều biết, Chính phủ Liên Xô, trung thành với nghĩa vụ đồng minh của mình, đúng một tuần lễ sau, đã triển khai cuộc tiến công cực lớn trên toàn bộ mặt trận làm rung chuyển đến tận gốc phòng ngự của quân Đức trên tất cả các hướng chiến lược, và buộc quân Đức bị thua thiệt nặng phải rút về Ô-đe, Nây-xe, Mô-ráp-xcô, Ô-xtơ-ra, bỏ lại Viên và phần đông nam nước Áo.
Nhớ lại cuộc tiến công ấy, Đ. Ai-xen-hao nói:
- Đối với chúng tôi, đây là cuộc tiến công mong đợi từ lâu. Tất cả chúng tôi đều thấy nhẹ nhõm, nhất là khi được tin cuộc tiến công phát triển rất thắng lợi. Chúng tôi vững tin rằng quân Đức lúc này sẽ không thể nào tăng cường cho mặt trận phía tây của chúng được.”(Nhớ lại và Suy nghĩ - G.K. Giu-cốp).

CHIẾN DỊCH ĐÔNG PHỐ
Vùng Đông Phổ có một hệ thống phòng ngự rất mạnh của quân đội quốc xã, bao gồm rất nhiều công sự bê tông cốt sắt. Riêng vùng phòng ngự Hen-xbớc có tới hơn 900 công trình phòng thủ lâu dài, với rất nhiều hào chống tăng. Lực lượng quân Đức ở đây có tới 45 sư đoàn với 580.000 lính và sỹ quan, 8.200 khẩu pháo và súng cối, khoảng 700 xe tăng và pháo tấn công. Cuộc phòng thủ Đông Phổ còn có sự tham gia của 200 thành viên Xung kích nhân dân (Dân quân Đức), với sự yểm hộ của 775 máy bay chiến đấu. Bắt đầu cuộc tấn công, quân đội Xô-viết có ở đây 1.669.000 người, 25.426 khẩu pháo và súng cối, 3.859 xe tăng và pháo tự hành, 3.097 máy bay chiến đấu.
Ngày 13 tháng Giêng, cuộc tấn công của Hồng quân bắt đầu. Sương mù dày đặc bao phủ chiến trường. Sử dụng sương mù như một lợi thế, quân Đức chờ bộ binh và xe tăng Xô-viết đến thật gần mới khai hoả, nhưng cuộc tấn công của quân đội Xô-viết ngày càng mạnh và không gì có thể ngăn cản nổi.
Ngày 21 tháng Giêng, quân đội Xô-viết giải phóng Gum-bi-nen, và ngày hôm sau: In-xtéc-bớc và lực lượng Đức phải rút lui khỏi vùng hồ Ma-su-ri-an. Cuộc rút lui này của bộ phận quân Đức đóng trên khu vực gần In-xtéc-bớc đã mở rộng cánh cửa tới thành phố Kê-ních-xbéc. Quân đội Xô-viết tiếp tục truy kích quân Đức.
Ngày 10 tháng Hai, quân đội Xô-viết thanh toán quân Đức, tiếp tục tăng sức ép tới tây nam Kê-ních-xbéc. Chỉ huy quân đội Xô-viết ở đây là Đại tướng 38 tuổi: I. Chéc-nhi-a-khốp-xki, đã thể hiện tài năng chỉ huy và tinh thần quả cảm cao độ.
Ngày 18 tháng Hai, Đại tướng I. Chéc-nhi-a-khốp-xki bị tử thương trong trận chiến đấu gần Man-xắc. Đại tướng được hoả táng tại Vi-nhi-út.
Ngày 29 tháng Ba, toàn bộ nhóm quân Đức ở tây nam Kê-ních-xbéc hoàn toàn bị tiêu diệt, sau 48 ngày chống cự. Chỉ có một nhóm nhỏ thoát được qua Vịnh.
Ngày 6 tháng Tư, quân đội Xô-viết bắt đầu tấn công mãnh liệt vào thành phố Kê-ních-xbéc.
Ngày 9 tháng Tư, quân Đức đã phải tiến hành phòng ngự trong thành phố Kê-ních-xbéc bị vây chặt.
Từ ngày 13 đến ngày 25 tháng Tư, toàn bộ quân Đức ở vùng Đông Phổ đóng trên khu vực Bán đảo Zemland đã bị đánh tan. Quân đội Xô-viết ở đây được sự yểm hộ tích cực của tàu chiến, tàu ngầm và không quân hải quân của Hạm đội Ban-tích. Trong chiến dịch này, hơn 25 sư đoàn Đức bị tiêu diệt. 12 sư đoàn mất từ 50 đến 75% quân số. Quân đội Xô-viết đã tiếp quản toàn bộ miền Đông Phổ và do đó giải phóng phần lớn đất đai phía bắc của Ba-lan.

TRÊN HƯỚNG CÁC-PÁT – PRA-HA
Trong nửa đầu tháng Giêng, quân đội Xô-viết đã tiến công theo hướng mặt trận từ sông Vi-xla đến Ôn-đa-va. Chiến dịch tấn công còn được tiếp tục tiến hành trên miền nam Xlô-va-ki-a. Các hoạt động quân sự được tiến hành trong điều kiện vẫn còn mùa đông trên vùng rừng núi.
Trong các tháng Giêng – Hai, Hồng quân giải phóng miền Nam Ba-lan và phần lớn đất đai của Xlô-va-ki-a.
Cuối tháng Hai, quân đội Xô-viết tiến đến thượng nguồn sông Vi-xla và tiếp tục tấn công trên hướng tới vùng công nghiệp Mô-ráp-xca – Ô-xtra-va và trên sườn phía tây của vùng mỏ Xlô-va-ki-a trên sông Grôn.
Ngày 25 tháng Ba, quân đội Xô-viết tấn công vào lực lượng quân Đức ở Bắc Đa-nuýp, sau khi vượt sông Grôn, tiếp tục cuộc giải phóng những đất đai còn lại của Tiệp Khắc.
Ngày 4 tháng Tư, Hồng quân giải phóng thủ đô Xlô-va-ki-a, thành phố Bra-ti-xla-va và phát triển tấn công vào thành phố Brơ-nô.

TỪ BU-ĐA-PEST TỚI VIÊN
Từ ngày 26 tháng Chạp năm 1944, quân đội Xô-viết đã mở cuộc tấn công để tiêu diệt lực lượng phát-xít Đức xung quanh thành phố Bu-đa-pest. Chủ lực của lực lượng Hồng quân tại đây bao vây lực lượng quân Đức ở phần đông thành phố, còn phần còn lại thì bao vây nhằm tiêu diệt quân Đức tại phần phía tây thành phố, Bu-đa. Quân Đức ở đây nhận được mệnh lệnh từ Bộ chỉ huy phòng thủ thành phố đến người lính cuối cùng, hy vọng vào việc điều một lực lượng từ bên ngoài đến phá vây, phục hồi tuyến phòng thủ trên sông Đa-nuýp. Để đạt được mục tiêu này, quân Đức đã phải tiến hành ba cuộc phản công. Những trận đánh đẫm máu đã diễn ra trên phần phía tây thành phố Bu-đa-pest trong hơn một tháng.
Ngày 13 tháng Hai, thủ đô Hung-ga-ri được giải phóng. Đại bộ phận quân Đức xin hàng, những bộ phận cố gắng phá vây để thoát thân đều bị tiêu diệt. Hơn 350.000 cán bộ chiến sỹ được tặng thưởng Huy chương “Giải phóng Bu-đa-pest” - được đặt ra để ghi nhớ chiến thắng này. Nhiều đơn vị được đặt lại tên Thành phố. Cùng với quân đội Xô-viết, các đơn vị của Quân đoàn Ru-ma-ni và các chiến sỹ và sỹ quan Hung-ga-ri của Lữ đoàn tình nguyện Bu-đa-isk cũng tham gia vào trận đánh giải phóng Bu-đa-pest.
Ngày 6 tháng Ba, quân Đức bắt đầu phản công. Bộ chỉ huy Đức cố gắng bằng mọi giá để “hất” Hồng quân về phía sau sông Đa-nuýp, nhằm giữ được vùng dầu giàu có phía nam thành phố Viên và tây hồ Ba-la-tông. Chúng tập trung quân chủ lực ở tây nam Bu-đa-pest và chuyển một số sư đoàn xe tăng và bộ binh từ phía tây Đức và Ita-li-a. Tập đoàn quân xe tăng SS số 6 được điều tới đây từ mặt trận phía Tây.
Ngày 15 tháng Ba, nỗ lực phản công của quân đội phát-xít bị chặn đứng. Bộ tư lệnh Đức thất bại trong việc cố gắng làm chủ tình hình trên vùng sông Đa-nuýp.
Ngày 16 tháng Ba, quân đội Xô-viết bắt đầu chiến dịch Viên, và kết quả là quân Đức bắt đầu phải rút lui khỏi đây.
Ngày 4 tháng Tư, Hồng quân hoàn toàn giải phóng Hung-ga-ri. Ngày 4 tháng Tư sau đó đã được Quốc hội nước Cộng hoà Nhân dân Hung-ga-ri chọn là ngày Quốc khánh. Hơn 140.000 chiến sỹ và cán bộ chỉ huy Hồng quân đã hy sinh cuộc sống trong chiến dịch giải phóng đất nước Hung-ga-ri.
Ngày 13 tháng Tư, Hồng quân hoàn toàn giải phóng thành phố Viên khỏi tay phát-xít Đức. Đó là thủ đô thứ sáu của Châu Âu được quân đội Xô-viết giải phóng. Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô quyết định đặt ra Huy chương “Giải phóng Viên” để tặng thưởng cho các cán bộ chiến sỹ tham gia trận chiến đấu này: hơn 270.000 người.
Hơn 26.000 chiến sỹ, sỹ quan Hồng quân đã hy sinh trong cuộc chiến đấu giải phóng nước Áo khỏi chế độ phát-xít.

BÃO TÁP Ở THÀNH PHỐ BÉC-LIN
Sáng sớm ngày 16 tháng Tư, quân đội Xô-viết bắt đầu tấn công vào Béc-lin. Chiến dịch lôi cuốn 2,5 triệu người, 41.600 pháo và súng cối, 6.250 xe tăng và pháo tự hành, 7.500 máy bay chiến đấu, trong đó có 800 máy bay ném bom tầm xa thuộc lực lượng Không quân tầm xa của Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao. Một số lượng pháo binh rất lớn, chưa từng có dc tập trung trên hướng tấn công chính, thẳng tới Béc-lin. Trong đó phải kể đến vai trò quan trọng của những giàn pháo phản lực “Ca-chiu-sa”.
Ngày 25 tháng Tư, Quân đội Xô-viết đã gặp quân đội Mỹ trên bờ sông En-bơ, vùng Torgau.
Ngày 29 tháng Tư, Hồng quân đã chọc thủng được phần lớn các chiến luỹ trong thành phố Béc-lin và tiến vào khu trung tâm. Ngày hôm trước, Sư đoàn của Tướng Sa-ti-lốp đã tấn công mãnh liệt chiếm được nhà tù Môa-bit, nơi đây bọn quốc xã đã giết hại nhà thơ Tác-ta Musa Dzhalil. Tất cả những tù binh còn sống sót được phóng thích bởi Hồng quân.


Ngày 30 tháng Tư, Hồng quân bắt đầu tấn công Nhà quốc hội Đức. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong từng căn phòng, từng tầng nhà. Bất chấp sự chống cự ngoan cố của những tên phát-xít ở đây, Hồng quân vẫn cố gắng chiếm từng tầng, từng phòng và tiến lên.
Sáng sớm ngày 1 tháng Năm ngọn cờ đỏ đã được các chiến sỹ Hồng quân M. Yê-gô-rốp và M. Can-ta-ri-a cắm lên nóc nhà Quốc hội Đức. Hàng ngàn chiến sỹ và sỹ quan được tặng thưởng các Huân, Huy chương cao quý. Các sỹ quan: A. Đa-vi-đốp, S. Nê-u-xtrô-ép, K. Xam-xô-nốp, các Thượng sỹ . Yê-gô-rốp và M. Can-ta-ri-a và rất nhiều người khác được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Ngày 8 tháng Năm, tại Các-lơ-xkhoóc (ngoại ô Béc-lin), vào lúc 23 giờ 45 phút giờ địa phương, đã diễn ra lễ ký văn bản đầu hàng không điều kiện của nước Đức và các lực lượng vũ trang Đức. Đại diện nước Đức gồm có: Cựu tham mưu trưởng lục quân Đức thống chế Cây-ten (The former Chief of Staff of the Wehrmacht Supreme Command Field Marshal Keitel), Tư lệnh Hải quân Đức, Đô đốc Phri-đê-bua (Commander-in-Chief of the Navy Admiral Friedeburg), Thượng tướng Không quân Stum (Colonel General of the Air Forces Stumpf), được sự uỷ nhiệm của Đô đốc Đơ-nít (Doeniz) - kẻ được chỉ định là người kế vị của Ađônphơ Hít-le - đến ký kết văn bản đầu hàng.
Đại diện Quân đội Xô-viết: Nguyên soái G.K. Giu-cốp – Phó Tổng tư lệnh tối cao, đại tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, tổng quân quản đầu tiên thành phố Béc-lanh, thượng tướng N.E. Béc-da-rin, ủy viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân, trung tướng Ph.E. Bô-cốp.
Đại diện Bộ chỉ huy Đồng Minh: Thống chế Không quân Hoàng Gia Anh quốc Tê-đe, Tướng Mỹ Xpa-át và Tướng Pháp Đờ Lát Đờ Tát-xi-nhi.

Điều đầu tiên của văn bản ghi rõ:
“1. Trước Bộ Tổng tư lệnh Hồng quân và đồng thời trước Bộ tổng chỉ huy các lực lượng viễn chinh Đồng minh, chúng tôi, ký tên dưới đây, nhân danh bộ tổng chỉ huy Đức, nhận rằng, tất cả các lực lượng vũ trang chúng tôi trên bộ, dưới biển và trên không, cũng như tất cả các lực lượng hiện đang dưới quyền bộ chỉ huy Đức chịu xin đầu hàng không điều kiện”.

0 Giờ 43 phút ngày 9 tháng Năm, lễ ký văn bản đầu hàng không điều kiện của nước Đức kết thúc. Ngày 9 tháng Năm là ngày đi vào lịch sử nhân loại và thế giới – Ngày chiến thắng chủ nghĩa phát-xít.
Mát-xcơ-va bắn 25 loạt đại bác của 324 khẩu chào mừng ngày chiến thắng, chào mừng các chiến sỹ Xô-viết quang vinh đã chiếm Béc-lin, sào huyệt cuối cùng của Đế chế thứ ba.

tamexim
30-07-2012, 10:12 AM
Chiến dịch Korsun - Sevchenco

Cuộc tiến công trên Hữu ngạn Ucaraina được chia thành 2 giai đoạn. Trong gia đoạn thứ nhất (24/12/1943 – 29/2/1944), bộ đội của 4 Phương diện quân Ucraina tiến hành 5 chiến dịch:
1- Chiến dịch Zitomir – Berdichevski
2- Chiến dịch Kirovograd
3- Chiến dịch Rovno – Luski
4- Chiến dịch Korsun - Sevchenco
5- Chiến dịch Nikopolski - Krivorojneski

Trong các chiến dịch ấy, các phương diện quân đánh tan các cụm quân lớn của địch ở các khu vực Zitomir, Kirovograd, Crivoi Rog, đã giải phóng phần lớn các vùng đất đai bên Hữu ngạn Ucraina và tiêu diệt được bàn đạp của địch bên Tả ngạn sông Dnepr ở khu vực Nikopolski.

Còn ở khu vực Korsun - Sevchenco đã bao vây và tiêu diệt một cụm quân lớn của phát-xít Đức.

Nhờ kết quả của các hoạt động tác chiến đó, bộ đội cánh phải của Phương diện quân Ucraina-1 đã bao vây được cụm quân “nam” của địch từ phía bắc và đã chiếm được vị trí có lợi để tiến hành đột kích ở hướng Chernovsư . Do thanh toán được chỗ lồi Korsun-Sevchenco và bàn đạp Nikopolski đã tạo được những điều kiện thuận lợi cho bộ đội các Phương diện quân Ucraina-2 và 3 tiếp tục tiến công vào Iujnưi – Bug, Dniestri và Prus

Ở đây ta đi sâu vào chiến dịch Korsun - Sevchenco do tầm quan trọng, cũng như kết quả của chiến dịch. Chiến dịch Korsun - Sevchenco được ví như trận Xtalingard thứ 2 trong cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại.

Chiến dịch Korsun – Sevchenco

Cuối tháng Giêng 1944, sau những chiến dịch do Phương diện quân Ucraina - 1 (do tướng N. Ph. Vatutin làm tư lệnh) và Ucraina - 2 (do tướng Konev làm tư lệnh) tiến hành, tại vùng Korsun - Sevchenco đã hình thành mỏm lồi. Từ tháng Chạp 1943, tư lệnh quân Đức Manstein đã đề nghị rút một bộ phận khỏi vùng này và bỏ Nikopol. Quyết định này nhằm rút bớt phòng tuyến 200 ki-lô-mét, tránh sự bao vây của quân đội Liên Xô. Hítle không chấp thuận, cho rằng cuộc triệt thoái sẽ khiến quân Nga tập trung lực lượng tấn công Crưm

Bộ chỉ huy mặt trận quân đội Xô-viết hạ lệnh phải “chặt đứt” mỏm lồi đó, với ý định sử dụng Phương diện quân Ucarina - 1 và Ucraina - 2 giáng những đòn mạnh mẽ, đồng thời tiến về hướng Zvenigorodka, bao vây và tiêu diệt sinh lực địch.



Quân đội Xôviết tham gia chiến dịch gồm có:

27 sư đoàn bộ binh
1 quân đoàn cơ giới
4 quân đoàn xe tăng

Tổng cộng có 255 ngàn người, 5300 pháo cối, 513 xe tăng, pháo tự hành, 772 máy bay chiến đấu)

Cụm quân Đức phòng thủ có:

9 sư đoàn bộ binh, Sư đoàn xe tăng số 5 SS “Viking”, Lữ đoàn SS “Ballonia”, 4 tiểu đoàn xe tăng cường kích (của tập đoàn quân 1 và 8 xe tăng). Như vậy quân Đức có 170 ngàn người, 310 xe tăng, 1.000 máy bay chiến đấu.

Vùng mỏm Korsun-Sevchenco có đinh rơi vào Kanev, kéo dài tới tận Dnep, chiều rộng 130 ki-lô-mét, diện tích khoảng 10 nghìn ki-lô-mét2

Quân Đức tổ chức tuyến phòng thủ kiên cố, có khả năng đẩy lùi 6 sư đoàn tăng tấn công

Đại bản doanh chỉ thị cho 2 Phương diện quân cùng đánh vào chân mỏm Korsun - Sevchenco bằng 2 mũi khép lại, gặp nhau ở vùng Zvenigorodka. Trước khi chiến dịch bắt đầu, Đại bản doanh tăng cường tập đoàn quân xe tăng 2 cho Phương diện quân Ucraina - 1

Tư lệnh Phương diện quân Ucraina - 1, tướng Vatutin chia 6 sư đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 40 và 27, 2 quân đoàn của tập đoàn quân xe tăng 6 có nhiệm vụ chọc thủng tuyến phòng thủ 15 ki-lô-mét đoạn Tưnovka – Kosevoe.

Phương diện quân Ucraina - 2 sẽ chọc thủng tuyến phóng thủ đoạn Verbovka – Krasnosilka, sử dụng lực lượng của tập đoàn quân binh chủng hợp thành số 40 và 53, sau đó phát triển lên hướng Spolu và Zvenigorodka. Tại cánh của tập đoàn quân 53 sẽ đưa tập đoàn quân xe tăng Rotmistrov (3 quân đoàn tăng), vận động từ Kirovograd theo con đường riêng, tới quân đoàn kỵ binh Donski(***). Để lôi kéo, không cho địch nhận ra hướng tấn công chính, Tập đoàn quân cận vệ 5 và 7 sẽ đảm nhận tấn công sớm trước 1 ngày của chính dịch. Ở cánh phải, Phương diện quân Ucraina - 2 sẽ cho Tập đoàn quân số 52 xuất phát. Như vậy, tướng Konev đã sử dụng 35 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn kỵ binh

Cuộc tấn công của các phương diện quân được sự yểm trợ của tập đoàn quân không quân số 2, số 5, quân đoàn không quân tiêm kích số 10.

Trên các hướng tấn công, lực lượng Hồng quân đều vượt trội so với quân Đức:
Quân số gấp 3 - 4 lần
Pháo và súng cối gấp 3 - 6 lần
Xe tăng và pháo tự hành gấp 5 - 10 lần
Lực lượng không quân xấp xỉ nhau

Công việc chuẩn bị được tiến hành trong các điều kiện hết sức khó khăn về thời tiết. Tuyết rơi, đường đi lầy lội gây cản trở cho việc vận chuyển các vũ khí, khí tài, tầm nhìn kém khiến máy bay cất hạ cánh khó khăn. Kết quả là Hồng quân Xôviết không thể chuẩn bị được thật đầy đủ dự trữ vật chất.

Phương diện quân Ucraina-2 mở đầu cuộc tấn công vào ngày 24 tháng Giêng ở hướng Zvenigorodka. Các tiểu đoàn bộ binh tăng cường, được sự yếm trợ của pháo binh, máy bay tiêm kích đã tập tan sự kháng cự của quân địch ở tuyến tiền duyên. Đến cuối ngày đã tiến sâu được 6 ki-lô-mét.

Lúc này đã xuất hiện thời cơ tung vào trận lực lượng chính để phát huy thắng lợi, tuy nhiên Bộ chỉ huy Phuơng diện quân lại không muốn thay đổi kế hoạch ban đầu của của chiến dịch. Điều đó đã tạo cơ hội cho địch chuyển lực lượng tới các hướng khác.

Lực lượng chủ yếu của Tập đoàn quân cận vệ số 4 và 53 xung trận sáng 25 tháng Giêng. Các trận oanh kích của không quân kéo dài khoảng 10 phút chưa mang lại lại hiệu quả. Thời tiết xấu, máy bay khó hoạt động, lực lượng Hồng quân đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân địch. Để tăng thêm áp lực ở tuyến trọng yếu có chiều rộng 6 ki-lô-mét, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 53 đã được đưa vào trận. Hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh, các chiến sỹ xe tăng cận vệ đã chọc thủng vùng phòng thủ chiến thuật. Đến cuối ngày tiến sâu được 18 ki-lô-mét.

Sang ngày thứ 2, quân Đức vội vã chuyển một bộ phận của Sư đoàn tăng 14 và Sư đoàn bộ binh 57 tổ chức phản kích làm chậm hướng tiến công của Hồng quân. Ngày 27 tháng Giêng chúng tăng cường các sư đoàn xe tăng từ phía nam và cụm quân bộ binh, được tăng cường xe tăng từ phía bắc phối hợp đánh ra. Sau những tận đánh ác liệt chúng không chỉ bịt được lỗ hổng đã bị chọc thủng, mà còn thực hiện chia cắt 2 quân đoàn của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ khỏi lực lượng trung tâm.

Tướng Konev tổ chức một bộ phận đánh trả cụm quân Đức, hạ lệnh Quân đoàn xe tăng số 20 tiếp tục tấn công. Đêm 28 tháng Giêng xe tăng của Quân đoàn đã đột nhập thành phố Spola. 13 giờ ngày hôm sau chiếm được Zvenigorodka, hội quân với mũi thọc sâu của Tập đoàn quân xe tăng số 6.

Tập đoàn quân cận vệ số 4 và số 53, phối hợp với Quân đoàn xe tăng số 18 và Quân đoàn kỵ binh số 5, từ 28 đến 30 tháng Giêng đánh thọc vào sườn quân Đức, hình thành thế trận bao vậy trong và ngoài

Phương diện quân Ucraina-1 quyết định tấn công vào ngày 26 tháng Giêng. Các cuộc giao tranh diễn ra ác liệt. Thê đội 1 bao gồm 2 Tập đoàn quân xe tăng số 40 và số 6 đã bị hỏa lực kháng cự mạnh của địch chống trả, chịu nhiều tổn thất và trong một ngày chỉ có thể tiến được 2 - 5 ki-lô-mét. Các binh đoàn của Tập đoàn quân 27 tiến được 8 - 12 ki-lô-mét. Sang ngày thứ 2, Tập đoàn quân 27 tiến được 25 ki-lô-mét và chọc thủng tuyến phòng thủ chiến thuật của địch. Ngày 28 tháng Giêng, mũi thọc sâu của tập đoàn quân xe tăng số 6 tới được Zvenigorodka, hôi quân với các quân quân đoàn xe tăng số 20 và số 5 đến từ hướng nam.

Để ghi nhớ chiến công đột phá trận tuyến của địch và cuộc gặp gỡ của bộ đội 2 Phương diện quân Ucraina-1 và 2, sau này tại trung tâm thành phố Zvenigorodka đã dựng đài kỷ niệm, trên có đặt 1 chiếc xe tăng T -34. ở đài kỷ niệm có ghi:

“Tại đây, ngày 28-1-1944, vòng vây bọn xâm lược Hitler ở vùng Korsun-Sevchenco đã khép kín. Ở đây tổ xe tăng của lữ đoàn xe tăang Zvenigorodka 155 huân chương cờ đỏ thuộc Phương diện quân Ucraina-2 gồm trung uý Khokholov Evgheni Alexandrovich, thợ máy lái xe Andreev Anatoli Alexeevich, chỉ huy tháp xe Zaisev Iakov Sergheevich do trung tá Prosin Ivanovich chỉ huy, đã bắt tay các chiến sỹ xe tăng thuộc phương diện quân Ucraina-1”

(Giu-cốp - “Nhớ lại và suy nghĩ”)

Như vậy, qua 4 ngày của chiến dịch Korsun-Sevchenco, cụm quân Đức đã hoàn toàn bị bao vây. Số quân của các sư đoàn và các đơn vị độc lập bị bao vây lên tới 80.000 người, 230 xe tăng cùng các phương tiện công kích. Tư lệnh pháo binh của cụm quân bị bao vây Vilhelm Stemmerman truyền lệnh của Hítle phải giữ vững tuyến phòng thủ. Bộ chỉ huy quân Đức đã cố gắng huy động tất cả các sư đoàn xe tăng hiện có trong khu vực, nhưng chúng không thể nhanh chóng tập hợp để đồng thời mở cuộc phá vây

Bộ chỉ huy quân đội Xô-viết thực hiện tất cả mọi biện pháp để siết chặt vòng vây trong một số ngày. Các tập đoàn quân xe tăng của cả 2 phương diện quân đều đã được sử dụng, với sự yểm trợ của pháo binh, công binh

Đồng thời các tập đoàn quân phối hợp đã tạo thành vòng vây trong dày đặc. Để tiêu diệt cụm quân bị bao vây, Hồng quân đã huy động 20 sư đoàn bộ binh và kỵ binh, 138 xe tăng và pháo tự hành. Các chiến đấu cơ hoạt động hiệu quả phong tỏa trên không.

Các trận giao tranh diễn ra ác liệt cả vòng trong và vòng ngoài. Quân Đức nhiều lần tổ chức phá vây nhưng không đạt kết quả. Chúng ngoan cố phòng thủ và khước từ lời kêu gọi đầu hàng của Hồng quân ngày 8 tháng Hai. Để nhanh chóng tiêu diệt quân phòng thủ, Bộ chỉ huy Hồng quân tiếp tục triển khai lực lượng bao vây.

Ngày 11 tháng Hai, Bộ chỉ huy cụm quân “Nam” của Đức gồm 7 sư đoàn xe tăng, phối hợp với cụm quân bị vây tiến hành đợt phá vây cuối cùng. Lần này quân Đức cũng không đạt được ý định, tuy nhiên đạo quân của viên tư lệnh Đức từ bên trong mở đầu cuộc tấn công ngày 12 tháng Hai, đã lợi dụng sự thiếu hợp đồng của 2 cánh quân Xôviết đã thu ngắn khoảng cách với đạo qưân bên ngoài từ 10-12 ki-lô-mét.

Bằng mọi nỗ lực, các binh chủng hợp thành của quân đội Xôviết đã đập tan mọi hy vọng của quân phòng thủ. Tới ngày 16-2, quân Đức chỉ còn kháng cự yếu ớt. Đội quân bao vây của Hồng quân đã chiếm được 3 điểm dân cư là Senderovka, Khilki và Kamarovka. Trong hoàn cảnh đó, Manstein ra lệnh phá vây từ Senderovka về phía tây nam. Những khẩu pháo bị bỏ lại sau khi bắn hết đạn. Mọi tài liệu quan trọng của bộ tư lệnh và các đồ dùng cá nhân đều phải thiêu huỷ. Nhiều tên bị thương nặng bị bỏ lại, hy vọng vào sự nhân đạo của đối phương.

Ngày 17 tháng Hai. Bão tuyết dày đặc, tầm nhìn giảm xuống giới hạn. Lợi dụng tình hình đó, quân Đức âm mưu phá vây. Chúng đụng độ với Sư đoàn bộ binh 180 và bị chặn đánh quyết liệt. Những tên lọt qua, tới vòng vây bên ngoài, bị Konev tung quân dự bị cơ động truy kích. Một số tướng, sỹ quan và bọ SS thoát khỏi vòng vây.

Như vậy trong chiến dịch đánh cụm quân địch bị bao vây, 55.000 tên Đức bị giết 1.800 bị bắt làm tù binh. Tính cả toàn bộ chiến dịch Korsun-Sevchenco, Hồng quân đã tiêu diệt 82.000 tên, bắt làm tù binh 20.000 tên

Với thắng lợi của chiến dịch Korsun-Sevchenco, Phương diện quân Ucraina và Bộ chỉ huy đã được Tổng Tư lệnh tối cao khen ngợi. Tư lệnh Konev đuợc phong quân hàm “Nguyên soái Liên Xô”.

Nguyên soái Jukov trong “Nhớ lại và suy nghĩ” có viết:

“Thủ đô Tổ quốc ta ngày 18-2 bắn súng chào mừng bộ đội Phương diện quân Ucraina - 2. Còn bộ đội của Phương diện quân Ucraina - 1 thì không hề nói tới. Đó là một sai lầm của Đại bản doanh.
Như chúng ta biết, thắng lợi bao vây và tiêu diệt cụm quân địch đều có sự hoạt động của cả tuyến phía trong và tuyến phía ngoài. Cả 2 Phương diện quân do N. F. Vatutin và Konev chỉ huy đều chiến đấu giỏi”

lobimex
30-07-2012, 10:12 AM
Tuyệt ... tư liệu ko chê đc , he he , hy vọng anh em mình làm cho cái phần xã hội thật đáng để xem ... văn học , lịch sử ... Tất cả