phamfood
25-07-2012, 04:15 PM
Gần một nửa Windows 7 đang sử dụng là phiên bản 64 bit
Việc chuyển đổi sang điện toán 64 bit đã tăng tốc cùng với sự ra đời của hệ điều hành Windows 7. Số liệu thống kế mới đây của Microsoft cho thấy gần một nửa (46%) HĐH Windows 7 được cài đặt là phiên bản 64 bit. Tuyên bố này cho thấy có một sự gia tăng đột biến trong việc sử dụng phiên bản 64 bit.
Trong khi đó, Windows Vista chỉ có 11% người dùng cài đặt phiên bản 64 bit.
http://vtcdn.com/files/imagecache/med/images/2010/7/9/2287.image_5f00_1dce517a.png (http://vtcdn.com/files/images/2010/7/9/2287.image_5f00_1dce517a.png)Bảng so sánh tỉ lệ phần trăm cài đặt HĐH Windows 64 bit và 32 bit
Windows 64 bit có nhiều lợi ích và dành cho một số nhu cầu của người dùng khác nhau. Các phiên bản 64 bit có thể truy cập tin cậy đến một số lượng lớn hơn bộ nhớ vật lý so với người anh em 32 bit của nó, có nghĩa là nhiều thông tin có thể được "giải quyết" một lúc hơn. Kiến trúc 32 bit có bộ nhớ cao nhất là 4 GB RAM trong khi nền tảng 64 bit tăng giới hạn bộ sắp xỉ 17,2 tỉ GB.
Windows 7 64 bit được thiết kế để sử dụng lên đến 192 GB RAM, một bước nhảy khổng lồ so với giới hạn của tất cả các hệ thống 32 bit. Tương tự, phần mềm được viết cho HĐH 64 bit có thể dễ dàng truy cập tới nhiều tài nguyên hệ thống hơn. Các yếu tố này có thể cung cấp một sự gia tăng hiệu năng đáng kể cho khối lượng công việc nặng nhọc như cơ sở dữ liệu. Song, đối với các công việc phổ biến khác trên máy tính để bàn như xử lí văn bản hoặc duyệt web thì nó có rất ít lợi thế.
Bản so sánh giới hạn bộ nhớ RAMPhiên bảnGiới hạn ở Windows 32 bitGiới hạn ở Windows 64 bitWindows 7 Ultimate4 GB192 GBWindows 7 Enterprise4 GB192 GBWindows 7 Professional4 GB192 GBWindows 7 Home Premium4 GB16 GBWindows 7 Home Basic4 GB8 GBWindows 7 Starter2 GB2 GBWindows 64 bit có khả năng bảo mật cao hơn so với 32 bit. Windows 64 bit có thể làm cho hệ thống trở nên mạnh hơn với cơ chế bảo mật ASLR mà dữ liệu sẽ được gán lên bộ nhớ một cách ngẫu nhiên nhằm tăng độ khó cho các kẻ tấn công có ý định lợi dụng những sơ hở của hệ thống. Ngoài ra nó còn có cơ chế bảo mật DEP giúp ngăn chặn ứng dụng thực thi mã độc trong vùng bộ nhớ không cho phép.
Đó là những lợi ích về bảo mật mà đã hối thúc nhà sản xuất chip hàng đầu thế giới Intel chuyển sang sử dụng HĐH windows 7 64 bit và đã bày tỏ quan điểm rằng họ không có gì lo ngại về việc chuyển đổi sang nền tảng mới nhất này.
Vi xử lí kiến trúc x86 hỗ trợ Windows 64 bit ra đời từ năm 2003, nhưng tính phổ biến của phần mềm 64 bit đã tụt lại đằng sau sự sẵn sàng của bộ vi xử lí. Điều này bắt đầu thay đổi với Windows Vista. Chứng nhận trình điều khiển cho HĐH này yêu cầu bổ sung thêm trình điều khiển 64 bit song song với sự phổ biến của 32 bit, có nghĩa là các nhà sản xuất phần cứng phải dừng lại việc xem các phiên bản 64 bit như là một “phiên bản phụ”. Tương tự như vậy, chứng nhận phần mềm yêu cầu các nhà cung cấp kiểm tra và hỗ trợ phần mềm của họ trên Windows 64 bit.
Mặc dù việc kinh doanh HĐH 64 bit sẽ vượt qua 32 bit tại thời điểm nào đó trong thế hệ Windows 7, nhưng phần mềm 32 bit có lẽ sẽ không biến chuyển sớm hơn. Rất nhiều phần mềm vẫn còn tồn tại 32 bit với rất ít khả năng đạt được sự chuyển đổi này.
Một điểm đặc biệt là mặc dù lợi ích về bảo mật của windows 64 bit đã rõ ràng nhưng các trình duyệt Web và các plug-in của nó lại chưa sẵn sàng. Hiện tại Flash, một plug-in quan trọng cho trình duyệt nhưng lại không có phiên bản 64 bit. Internet Explorer đã có một phiên bản 64 bit nhiều năm nay, Mozilla có lẽ sẽ bổ sung phiên bản dành cho 64 bit vào đợt công bố chính thức Firefox 4 sắp tới.
Sự chuyển đổi sang 64 bit đang xảy ra có lẽ nhanh hơn so với việc chuyển từ phần mềm 16 bit lên 32 bit. Bộ vi xử lí 32 bit đầu tiên của Intel được ra mắt vào năm 1985 nhưng phải mất 1 thập kỉ sau đó khi mà Windows 95 ra đời thì HĐH 32 bit mới trở nên chính thống, nhưng thật ra đó chỉ là mã lai ghép giữa 16 bit và 32 bit. Mãi cho đến khi phát hành Windows XP vào năm 2001 thì người dùng máy tính mới chuyển sang một nền tảng 32 bit thực sự.
Việc chuyển đổi sang điện toán 64 bit đã tăng tốc cùng với sự ra đời của hệ điều hành Windows 7. Số liệu thống kế mới đây của Microsoft cho thấy gần một nửa (46%) HĐH Windows 7 được cài đặt là phiên bản 64 bit. Tuyên bố này cho thấy có một sự gia tăng đột biến trong việc sử dụng phiên bản 64 bit.
Trong khi đó, Windows Vista chỉ có 11% người dùng cài đặt phiên bản 64 bit.
http://vtcdn.com/files/imagecache/med/images/2010/7/9/2287.image_5f00_1dce517a.png (http://vtcdn.com/files/images/2010/7/9/2287.image_5f00_1dce517a.png)Bảng so sánh tỉ lệ phần trăm cài đặt HĐH Windows 64 bit và 32 bit
Windows 64 bit có nhiều lợi ích và dành cho một số nhu cầu của người dùng khác nhau. Các phiên bản 64 bit có thể truy cập tin cậy đến một số lượng lớn hơn bộ nhớ vật lý so với người anh em 32 bit của nó, có nghĩa là nhiều thông tin có thể được "giải quyết" một lúc hơn. Kiến trúc 32 bit có bộ nhớ cao nhất là 4 GB RAM trong khi nền tảng 64 bit tăng giới hạn bộ sắp xỉ 17,2 tỉ GB.
Windows 7 64 bit được thiết kế để sử dụng lên đến 192 GB RAM, một bước nhảy khổng lồ so với giới hạn của tất cả các hệ thống 32 bit. Tương tự, phần mềm được viết cho HĐH 64 bit có thể dễ dàng truy cập tới nhiều tài nguyên hệ thống hơn. Các yếu tố này có thể cung cấp một sự gia tăng hiệu năng đáng kể cho khối lượng công việc nặng nhọc như cơ sở dữ liệu. Song, đối với các công việc phổ biến khác trên máy tính để bàn như xử lí văn bản hoặc duyệt web thì nó có rất ít lợi thế.
Bản so sánh giới hạn bộ nhớ RAMPhiên bảnGiới hạn ở Windows 32 bitGiới hạn ở Windows 64 bitWindows 7 Ultimate4 GB192 GBWindows 7 Enterprise4 GB192 GBWindows 7 Professional4 GB192 GBWindows 7 Home Premium4 GB16 GBWindows 7 Home Basic4 GB8 GBWindows 7 Starter2 GB2 GBWindows 64 bit có khả năng bảo mật cao hơn so với 32 bit. Windows 64 bit có thể làm cho hệ thống trở nên mạnh hơn với cơ chế bảo mật ASLR mà dữ liệu sẽ được gán lên bộ nhớ một cách ngẫu nhiên nhằm tăng độ khó cho các kẻ tấn công có ý định lợi dụng những sơ hở của hệ thống. Ngoài ra nó còn có cơ chế bảo mật DEP giúp ngăn chặn ứng dụng thực thi mã độc trong vùng bộ nhớ không cho phép.
Đó là những lợi ích về bảo mật mà đã hối thúc nhà sản xuất chip hàng đầu thế giới Intel chuyển sang sử dụng HĐH windows 7 64 bit và đã bày tỏ quan điểm rằng họ không có gì lo ngại về việc chuyển đổi sang nền tảng mới nhất này.
Vi xử lí kiến trúc x86 hỗ trợ Windows 64 bit ra đời từ năm 2003, nhưng tính phổ biến của phần mềm 64 bit đã tụt lại đằng sau sự sẵn sàng của bộ vi xử lí. Điều này bắt đầu thay đổi với Windows Vista. Chứng nhận trình điều khiển cho HĐH này yêu cầu bổ sung thêm trình điều khiển 64 bit song song với sự phổ biến của 32 bit, có nghĩa là các nhà sản xuất phần cứng phải dừng lại việc xem các phiên bản 64 bit như là một “phiên bản phụ”. Tương tự như vậy, chứng nhận phần mềm yêu cầu các nhà cung cấp kiểm tra và hỗ trợ phần mềm của họ trên Windows 64 bit.
Mặc dù việc kinh doanh HĐH 64 bit sẽ vượt qua 32 bit tại thời điểm nào đó trong thế hệ Windows 7, nhưng phần mềm 32 bit có lẽ sẽ không biến chuyển sớm hơn. Rất nhiều phần mềm vẫn còn tồn tại 32 bit với rất ít khả năng đạt được sự chuyển đổi này.
Một điểm đặc biệt là mặc dù lợi ích về bảo mật của windows 64 bit đã rõ ràng nhưng các trình duyệt Web và các plug-in của nó lại chưa sẵn sàng. Hiện tại Flash, một plug-in quan trọng cho trình duyệt nhưng lại không có phiên bản 64 bit. Internet Explorer đã có một phiên bản 64 bit nhiều năm nay, Mozilla có lẽ sẽ bổ sung phiên bản dành cho 64 bit vào đợt công bố chính thức Firefox 4 sắp tới.
Sự chuyển đổi sang 64 bit đang xảy ra có lẽ nhanh hơn so với việc chuyển từ phần mềm 16 bit lên 32 bit. Bộ vi xử lí 32 bit đầu tiên của Intel được ra mắt vào năm 1985 nhưng phải mất 1 thập kỉ sau đó khi mà Windows 95 ra đời thì HĐH 32 bit mới trở nên chính thống, nhưng thật ra đó chỉ là mã lai ghép giữa 16 bit và 32 bit. Mãi cho đến khi phát hành Windows XP vào năm 2001 thì người dùng máy tính mới chuyển sang một nền tảng 32 bit thực sự.