lephuc01
19-08-2017, 11:41 AM
CHUYÊN SX CUNG ỨNG NHÔM U - V - LA - HỘP THANH CÁC LOẠI
NHẬN GIA CỘNG THEO KHUÂN MẪU
LH: 0937655551 - 0983994326
WEDSITE : NHÔM THANH CHỮ U (http://www.nhomqth.com:7777/mediaroot/media/userfiles/useruploads/968/files/WP_20150102_050.jpg)
http://www.nhomqth.com/upload/product/wp20150102050-6150.jpghttp://www.nhomqth.com/upload/product/img2444-8963.JPG
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic. Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.
Các hợp kim nhôm gây nên một thành phần quan trọng trong các máy bay và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt. Các lớp bao trùm này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm canh gác , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tiễn , cơ hồ tất các loại gương hiện đại được sản xuất sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy. Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các v bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng tiếp nhận bức xạ điện từ của kim ô tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để trở tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ô tô , máy bay , xe tải , toa xe , tàu hỏa , tàu bể , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v ) , xử lý nước.
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )
chế tác máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không bị từ hoá , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico.
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và làm ra đĩa CD.
Nhôm dạng bột thông thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có khả năng cho thêm vào trong sơn lót , cốt yếu là trong xử lý gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.
phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có xác xuất giao thoa.
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần nông dân của pháo.
3. Công nghệ sản xuất nhôm
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý đáng được coi trọng hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm dự phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Bởi thế nhôm là kim khí tương đối mới trong công nghiệp và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm. Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất từ quặng. Việc tinh luyện nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để sản xuất ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một chuye mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al2O3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000°C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980°C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn tạp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na3AlF6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer. Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville.
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wohler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali. Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon. Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3 e- = Al
Ở đây các ion nhôm bị biến chuyển ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anốt ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2 - = O 2 + 4 e-
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy. Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế luôn luôn , do nó bị mất mát do phản ứng:
O 2 + C = CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị hao hụt trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được gác canh bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn chính yếu là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa chữa hết thảy do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Heroult mất mát nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Chương trình hao hụt nang lu?ng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A. Các lò hiện này làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có xu hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Quebec ở Canada. Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 )
4. Các đồng vị của nhôm
Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , chu kì bán hủy t=7 , 2.10 5
năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ thông trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton. Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xâm thực trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để Học hỏi trăng và các thiên thạch. Các thành phần nông dân của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguồn gốc của chúng , trong khi ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã canh gác cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để chính xác tuổi trên địa cầu của các tinh thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ biến trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có thể là nang lu?ng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 có liên quan đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm. Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al13 ) được tạo ra có thuộc tính giống như nguyên tử iốt; và 14 nguyên tử nhôm ( Al14 ) có tính chất giống như nguyên tử kim khí kiềm thổ. Các nhà Học hỏi còn kết liên 12 nguyên tử iốt với cụm Al13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiotua. Sự phát kiến này được thông cáo là Cởi ra khả năng của các phản ứng mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố: "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Virginia Commonwealth University ) và A. Welford Castleman Jr ( Penn State University ).
5. Các hợp chất của nhôm
* AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500°C trong hiđrô.
* Al2O được điều chế bằng cách nung nóng ôxít thông thường , Al2O3 , với silic ở nhiệt độ 1800°C trong chân không.
* Al2S được điều chế bằng cách nung nóng Al2S3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300°C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được điều chế tương tự.
* AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
* Subôxít nhôm , AlO có khả năng được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy.
* Hiđrua nhôm , ( AlH3 )n , có khả năng làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong khí trời. Nó cũng có khả năng được pha chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.
* Cacbua nhôm , Al4C3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000°C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới Rắc rối , và phản ứng với nước hay axít loãng tạo ra mêtan. Axêtylua , Al2( C2 )3 , được phối chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
* Nitrua nhôm , AlN , có khả năng được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800°C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm.
* Phốtphua nhôm , AlP , được làm ra tương tự , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH3 )
.
* Ôxít nhôm , Al2O3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có xác xuất điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum. Nó gần như không hòa tan trong nước.
* Hiđrôxít nhôm( Al( OH )3 ) có thể được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có khả năng tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm. Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau
* Al2S3 , có xác xuất điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
* Florua nhôm , AlF3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó tạo thành phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291°C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.
* Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime. Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , nếu trimêtyl nhôm.
* Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có xác xuất tích điện dương đã được biết , trong đó đáng được coi trọng nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH4]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều ứng dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR4] có cấu trúc tương tự.
6. Một số điểm lưu ý khi sử dụng nhôm
Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ biến nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân thể sống , nhưng có một số người bị dị tương ứng nó — họ bị các chứng viêm da do gặp mặt với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi tả ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của ngộ độc nếu nó được tiếp thu nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ nhà bếp bằng nhôm ( phổ thông do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất ra đời sự ngộ độc nhôm. Địa ngục ta tuy là nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dù các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất nào đó có xác xuất bào mòn nó rất nhanh. Nếu , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp kiến với bề mặt của miếng nhôm có khả năng gây thiệt hại nhiều lớp ôxít nhôm bảo vệ bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có kiến trúc nặng nề có thể bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thạch tín không được phép trong nhiều trường bay và hãng v , vì nhôm là thành phần kiến trúc cơ bản của các máy bay.
NHẬN GIA CỘNG THEO KHUÂN MẪU
LH: 0937655551 - 0983994326
WEDSITE : NHÔM THANH CHỮ U (http://www.nhomqth.com:7777/mediaroot/media/userfiles/useruploads/968/files/WP_20150102_050.jpg)
http://www.nhomqth.com/upload/product/wp20150102050-6150.jpghttp://www.nhomqth.com/upload/product/img2444-8963.JPG
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic. Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học có xu hướng gia tăng so với bình thường đáng kể.
Các hợp kim nhôm gây nên một thành phần quan trọng trong các máy bay và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt. Các lớp bao trùm này tạo thành một lớp mỏng của ôxít nhôm canh gác , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tiễn , cơ hồ tất các loại gương hiện đại được sản xuất sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy. Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các v bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng tiếp nhận bức xạ điện từ của kim ô tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để trở tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ô tô , máy bay , xe tải , toa xe , tàu hỏa , tàu bể , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v ) , xử lý nước.
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn )
chế tác máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không bị từ hoá , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các nam châm Alnico.
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và làm ra đĩa CD.
Nhôm dạng bột thông thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có khả năng cho thêm vào trong sơn lót , cốt yếu là trong xử lý gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.
phần nhiều các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong sản xuất thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có xác xuất giao thoa.
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần nông dân của pháo.
3. Công nghệ sản xuất nhôm
mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 1% ) , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý đáng được coi trọng hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm dự phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Bởi thế nhôm là kim khí tương đối mới trong công nghiệp và được sản xuất với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó tách ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm. Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất từ quặng. Việc tinh luyện nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế chỉ tiêu hao khoảng 5% năng lượng để sản xuất ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một chuye mới. Tuy nhiên , nó là lĩnh vực hoạt động trầm lắng cho suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim loại hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al2O3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000°C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau đó bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hổ lốn chỉ còn khoảng 950-980°C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn tạp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na3AlF6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh chế , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer. Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville.
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wohler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali. Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon. Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động tự do. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3 e- = Al
Ở đây các ion nhôm bị biến chuyển ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anốt ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2 - = O 2 + 4 e-
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy. Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế luôn luôn , do nó bị mất mát do phản ứng:
O 2 + C = CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị hao hụt trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được gác canh bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị ăn mòn chính yếu là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sửa chữa hết thảy do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Heroult mất mát nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Chương trình hao hụt nang lu?ng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò đương đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A. Các lò hiện này làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thí nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có xu hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện dồi dào với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Quebec ở Canada. Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 )
4. Các đồng vị của nhôm
Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , chu kì bán hủy t=7 , 2.10 5
năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ thông trong thiên nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm sinh ra bởi các tia vũ trụ proton. Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xâm thực trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để Học hỏi trăng và các thiên thạch. Các thành phần nông dân của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguồn gốc của chúng , trong khi ngao du trong không gian bị tấn công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã canh gác cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để chính xác tuổi trên địa cầu của các tinh thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ biến trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng ta. Có thể là nang lu?ng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 có liên quan đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 6 tỷ năm. Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al13 ) được tạo ra có thuộc tính giống như nguyên tử iốt; và 14 nguyên tử nhôm ( Al14 ) có tính chất giống như nguyên tử kim khí kiềm thổ. Các nhà Học hỏi còn kết liên 12 nguyên tử iốt với cụm Al13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiotua. Sự phát kiến này được thông cáo là Cởi ra khả năng của các phản ứng mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố: "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Virginia Commonwealth University ) và A. Welford Castleman Jr ( Penn State University ).
5. Các hợp chất của nhôm
* AlH được điều chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500°C trong hiđrô.
* Al2O được điều chế bằng cách nung nóng ôxít thông thường , Al2O3 , với silic ở nhiệt độ 1800°C trong chân không.
* Al2S được điều chế bằng cách nung nóng Al2S3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300°C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được điều chế tương tự.
* AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
* Subôxít nhôm , AlO có khả năng được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy.
* Hiđrua nhôm , ( AlH3 )n , có khả năng làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong khí trời. Nó cũng có khả năng được pha chế bằng phản ứng của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.
* Cacbua nhôm , Al4C3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000°C. Các tinh thể màu vàng nhạt có kiến trúc lưới Rắc rối , và phản ứng với nước hay axít loãng tạo ra mêtan. Axêtylua , Al2( C2 )3 , được phối chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
* Nitrua nhôm , AlN , có khả năng được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800°C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm.
* Phốtphua nhôm , AlP , được làm ra tương tự , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH3 )
.
* Ôxít nhôm , Al2O3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có xác xuất điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum. Nó gần như không hòa tan trong nước.
* Hiđrôxít nhôm( Al( OH )3 ) có thể được điều chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có khả năng tạo ra các muối aluminat với kim khí kiềm. Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau
* Al2S3 , có xác xuất điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
* Florua nhôm , AlF3 , có thể phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó tạo thành phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291°C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.
* Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime. Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , nếu trimêtyl nhôm.
* Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có xác xuất tích điện dương đã được biết , trong đó đáng được coi trọng nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH4]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều ứng dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR4] có cấu trúc tương tự.
6. Một số điểm lưu ý khi sử dụng nhôm
Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ biến nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân thể sống , nhưng có một số người bị dị tương ứng nó — họ bị các chứng viêm da do gặp mặt với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi tả ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là như các kim loại nặng , nhưng có ám hiệu của ngộ độc nếu nó được tiếp thu nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ nhà bếp bằng nhôm ( phổ thông do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nhìn chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất ra đời sự ngộ độc nhôm. Địa ngục ta tuy là nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dù các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất nào đó có xác xuất bào mòn nó rất nhanh. Nếu , chỉ một lượng nhỏ thuốc độc tiếp kiến với bề mặt của miếng nhôm có khả năng gây thiệt hại nhiều lớp ôxít nhôm bảo vệ bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một một cái xà có kiến trúc nặng nề có thể bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thạch tín không được phép trong nhiều trường bay và hãng v , vì nhôm là thành phần kiến trúc cơ bản của các máy bay.